Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Ðổi Mới Con Người

Linh Mục Nguyễn Công Ðoan, SJ, Việt Nam

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan
Xã hội loài người thời nào cũng cho ta thấy vấn đề xung đột giữa "cũ và mới". Giữa hai thái độ cực đoan của con người thủ cựu và kẻ chạy theo cái mới là một chuỗi những thái độ thiên về thủ cựu hoặc nghinh tân khác nào giải mầu sắc cầu vồng. Có những người đã thấy cái đã có sẵn từ trước là quí, chỉ thấy an toàn trong những gì mình thừa hưởng của đời trước giống như đứa trẻ chỉ thấy an toàn trong vòng tay của mẹ hiền. Họ không muốn thấy thay đổi hoặc sợ thay đổi trong cách sống, cách làm, cách nghĩ; thậm chí cả những đồ dùng đã cũ họ cũng không muốn thay chỉ vì "đã quen với họ rồi". Thái độ thủ cựu này có khi là hiện thân của một cái nhìn bi quan về cuộc sống như ta gặp thấy trong câu châm ngôn Latinh: "Không có gì mới dưới ánh mặt trời", hoặc trong câu chữ Hán: "Ngã kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi" (mảnh đất tôi đang ngồi hôm nay, người xưa đã ngồi đó trước tôi rồi). Nhưng ngay trong nền tư tưởng được truyền đạt bằng chữ Hán cũng đã có bộc lộ một thái độ dung hòa: "Ôn cố nhi tri tân" (ôn chuyện xưa để hiểu chuyện nay), (tuy nghe vẫn có vẻ đề cao cái cũ hơn!), coi cái cũ như một kinh nghiệm về cuộc sống của con người, phản ảnh những nét chung của con người, của cuộc sống qua mọi thời đại; tuy hình thức có đổi thay nhưng những năng lực và động lực vẫn giống nhau. Chính những cái giống nhau đó làm cho người ta có thể ôn chuyện xưa để hiểu chuyện nay. Chúa Giêsu cũng dạy phải biết lấy "cả cái mới và cái cũ" mới là người khôn ngoan. Nhưng đâu là nguyên lý, là tiêu chuẩn cuối cùng để con người chọn lựa cái mới và cái cũ trong cuộc sống làm người?

Ở đây chỉ nêu vấn đề về cuộc sống làm người, vì nó là nhu cầu bức thiết nhất và cao cả nhất của con người. Do đó nó cũng là động lực và tiêu chuẩn cuối cùng cho mọi chọn lựa cũ mới khác liên hệ tới từng mặt của cuộc sống con người.
ÐỔI MỚI LÀ QUI LUẬT CỦA CUỘC SỐNG

Sự sống, dù ở cấp sơ đẳng nhất, cũng luôn luôn là một tiến trình đổi mới. Một cơ thể sống bao giờ cũng phải tiếp nhận dinh dưỡng để duy trì và phát triển sự sống của nó. Và mỗi sinh vật thực hiện tiến trình đổi mới theo những quy luật riêng của chủng loại mình: chủng loại sinh vật càng cao thì tiến trình đổi mới càng phức tạp. Trong bậc thang sinh vật trên mặt hành tinh chúng ta thì con người ở mức độ cao nhất và do đó cũng có một tiến trình đổi mới cực kỳ phức tạp về thể chất, tinh thần, xã hội...
a) Ta hãy nhìn vào quá trình đổi mới liên quan tới sự sống thể chất. Con người cần thức ăn, nước, và không khí để nuôi cơ thể. Thiếu một trong ba thứ này là sự sống không thể tiếp tục trong cơ thể con người. Ba chức năng tiêu hóa, hô hấp và tuần hoàn làm cho cơ thể luôn tiếp thu được những chất liệu mới để thay thế, đổi mới, nuôi dưỡng sự sống.
Ðể đáp ứng yêu cầu vật chất này, con người phải kiếm thức ăn, tức là phải lao động. Con vật cũng phải kiếm ăn, nhưng nó chỉ hành động theo bản năng. Mỗi loài vật có một cách kiếm ăn riêng nhiều khi rất tinh vi, kỳ diệu, làm ta phải thán phục, nhưng nó không cải tiến được cách kiếm ăn bẩm sinh. Con người thì khác, nhờ có khả năng văn hóa tức là khả năng tự cải tiến, làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn, nên con người có sáng tạo trong lao động: cải tiến, đổi mới công cụ và phương pháp lao động để kiếm ăn, tìm và chế biến những nguồn thức ăn mới. Con người càng tiến bộ thì nhu cầu đổi mới trong lao động càng tăng. Từ chỗ ăn trái cây và thịt sống, con người hôm nay đã chế ra bao nhiêu món ăn và đang tiến rất nhanh trong lãnh vực này. Từ chỗ lấy lá cây, da thú che thân để chống lạnh, con người đã chế ra biết bao thứ vải và bao nhiêu kiểu quần áo. Khả năng văn hóa làm cho con người đưa nhu cầu ăn và mặc lên một cấp nữa là ăn NGON và mặc ÐẸP. Con vật tỏ ra cũng thích cái NGON, cái ÐẸP, nhưng không có khả năng làm ra cái NGON và cái ÐẸP. Chỉ có con người với khả năng văn hóa mới biết làm ra cái NGON và cái ÐẸP, và luôn đổi mới cả cái NGON và cái ÐẸP. Con chim biết làm tổ, con vật biết làm ổ, nhưng loài nào cũng có một kiểu riêng và cứ thế mà làm từ đời này qua đời khác. Chỉ có con người đã tiến từ chỗ ở trong hang động đến chỗ biết làm nhà. Có những loài vật biết trang điểm chổ ở, nhưng cũng theo một mẫu nhất định, chỉ có con người biết làm đẹp chỗ ở của mình bằng nhiều cách, tùy thời kỳ và vị trí địa dư, biết tìm ra những vật liệu mới kiểu cách mới.
Trong các lãnh vực ĂN, MẶC và Ở này, ta thấy con người có một nhu cầu đổi mới không ngừng, không những chỉ để đáp ứng yêu cầu NO, ẤM và CHẮC mà còn nhằm đáp ứng cả yêu cầu NGON và ÐẸP nữa. NGON và ÐẸP ở đây vừa biểu lộ khả năng văn hóa của con người, vừa làm cho cái ĂN, cái MẶC và chỗ Ở xứng đáng hơn với phẩm giá CON NGƯỜI. Vậy thì tiêu chuẩn cuối cùng cho NGON và ÐẸP ở đây là CON NGƯỜI. NGON và ÐẸP là sản phẩm của con người để phục vụ con người, nên thước đo của nó cũng chính là con người. Cả phương tiện và cách thức làm ra cái ngon cái đẹp cũng phải đo bằng CON NGƯỜI.
b) Nói đến NGON và ÐẸP với KHẢ NĂNG VĂN HÓA là ta đã chạm tới đời sống tinh thần của con người rồi. Ðời sống tinh thần là khả năng của con người để thưởng thức, cảm nhận và bộc lộ tình cảm, đem trí tuệ và khả năng lao động chinh phục thế giới vật chất để bắt nó phục vụ con người.
Tình cảm con người xung quanh hai đối cực YÊU và GHÉT. Tấn kịch của cuộc đời mỗi con người cũng như lịch sử loài người từ đầu đến cuối đều do YÊU và GHÉT làm động lực và đầu mối triển khai. Hoặc con người làm chủ được YÊU và GHÉT hoặc bị xoay tít bởi lực YÊU-GHÉT mà vạch nên cuộc đời lịch sử. Cũng như vũ trụ quay mãi theo sức chuyển động của tinh vân nguyên thủy thì con người cũng chuyển mãi theo sức đẩy của YÊU-GHÉT và luôn đi tới những khoảng không mới, bộc lộ dưới những hình thức mới qua những đối tượng mới. Mỗi con người, mỗi thế hệ sống cái YÊU và GHÉT theo cách của mình và nhiều khi gần như ảo tưởng rằng chỉ có mình quay cuồng trong cái vòng YÊU-GHÉT đó. Và từ khi có con người để biết yêu và ghét thì con người ấy đã bắt đầu tìm những cách thức biểu lộ YÊU-GHÉT: lời nói, cử chỉ, quà tặng. Phương thế biểu lộ thì vẫn có bấy nhiêu; nhưng hình thức thì lại phải luôn luôn đổi mới. Ai cũng muốn người yêu của mình bộc lộ bằng những hình thức độc đáo, càng độc đáo thì lại càng dễ cho là chân thành (mặc dù Ðông Gioăng hay Sở Khanh nhiều khi còn độc đáo hơn!). Có những chuyện YÊU-GHÉT và những cách biểu lộ đã trở thành mẫu mực. Từ những chuyện thần thoại trong các nền văn hóa cổ xưa đến Roméo Julietts, Lan và Ðiệp... mỗi thời đại, mỗi dân tộc đã tìm những hình thức nghệ thuật để diễn tả, cô đọng kinh nghiệm, quan niệm YÊU-GHÉT của mình. Mỗi con người trong cuộc sống của mình, mỗi thế hệ trong thời đại của mình, đều cảm thấy phải luôn đổi mới tình cảm và cách biểu lộ tình cảm của mình, vừa khám phá sức mạnh của YÊU và GHÉT, vừa tìm xem YÊU và GHÉT như thế nào cho đúng là con người.
Ði vào lãnh vực của trí tuệ, ta lại càng thấy chóng ngợp trước nhu cầu và khả năng đổi mới. Sự hiểu biết của con người về mình, về vũ trụ, về cuộc sống phải đổi mới không ngừng, khi sự hiểu biết của một người, một xã hội ngừng lại thì chính là con người ấy, xã hội ấy đã bắt đầu suy vong. Lịch sử cho chúng ta thấy quá rõ điều ấy. Các chế độ thực dân, phong kiến, độc tài đều lấy ngu dân làm sách lược cai trị. Ngược lại sự mở mang trí tuệ bao giờ cũng đưa tới sự tiến bộ của xã hội. Người chỉ có chút ít hiểu biết và tự thỏa mãn với sự hiểu biết cỏn con ấy bao giờ cũng trở thành gàn dở, làm trì trệ cuộc sống bản thân và xã hội, bởi vì họ đã bóp chết khả năng hiểu biết của người khác. Thảm họa mất nước của chúng ta ở thế kỷ trước cũng bởi thói gàn dở và chính sách ngu dân của bọn vua quan nhà Nguyễn gây nên đó. Họ không tin rằng ngoài Trung Quốc ra còn có cái gì khác đáng học hỏi trên mặt đất này, và cũng không tin rằng ngoài họ ra còn có người Việt Nam nào khác đủ sức hiểu biết để đem lại hạnh phúc cho Dân Tộc này. Chính vì khuyên ta: "Ði ngày đàng học một sàng khôn"; "Ði cho biết đó biết đây, ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn" và khuyên ta đừng thẹn hỏi người dưới (bất sỉ hạ vấn). Còn kẻ tự mãn với cái hiểu biết cỏn con của mình thì cha ông đã ví như "ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung".
c) Ðời sống vật chất và tinh thần của con người không thể tách rời khỏi đời sống xã hội, vì bản chất con người là sinh vật xã hội. Tính xã hội vừa là hệ quả vừa là yêu cầu sinh tồn của đời sống vật chất và tinh thần của con người. Con người sinh ra và lớn lên, con người lao động kiếm sống, con người yêu ghét, con người hiểu biết... đều do đó làm nẩy sinh quan hệ xã hội, đồng thời nhờ quan hệ xã hội mà phát triển lao động, tình cảm, hiểu biết. Chính do quan hệ hai chiều này mà đời sống xã hội cũng phải luôn đổi mới theo sự đổi mới vật chất và tinh thần của con người và để phục vụ cho sự đổi mới ấy, phục vụ con người. Con người vừa làm nên thời đại của mình vừa do thời đại của mình tạo nên.
Ðến đây ta có thể nói rằng mọi sự đổi mới cuối cùng đều hướng về sự đổi mới con người như một cùng đích và xuất phát từ sự đổi mới con người như nguồn mạch. Tất cả mọi thực tại trần gian này đều để phục vụ con người: "Chúa đã đặt mọi sự dưới chân con người" (TV 8) và truyền cho con người phải "làm chủ mặt đất". "Mọi sự thuộc về anh em, nhưng anh em thuộc về Ðức Kitô và Ðức Kitô thuộc về Thiên Chúa" (1 Cor 3,22-23). Cả đến việc Con Thiên Chúa sinh xuống làm người cũng là "vì loài người chúng tôi".
Nhưng tại sao lại phải đổi mới con người? Ðâu là mẫu mực, là tiêu chuẩn cuối cùng để đổi mới con người? Ðổi mới như thế nào? Nhờ đâu?(Còn tiếp)
Lm Nguyễn Công Đoan, SJ