1. Định nghĩa và phân biệt :
• “Thánh Bổn mạng” = là vị thánh được tôn kính như Vị Bảo trợ hay Vị chuyển cầu cho trước Tòa Chúa[5]. Trong khi đó, tước hiệu là danh hiệu, tên gọi của một nhà thờ, hay của Dòng tu, hiệp hội, một nhóm. Do đó, Tước hiệu khác với Thánh Bổn mạng, cho dù cách nào đó Tước hiệu giả thiết thánh Bổn mạng[6].
• Giống nhau : có thể chọn Bổn mạng hay tước hiệu : Đức Trinh Nữ Maria, các thánh. Các Á Thánh chỉ được chọn khi có phép đặc biệt của Tòa Thánh.
• Nhưng khác biệt : không bao giờ được chọn làm Bổn mạng Thiên Chúa Ba Ngôi, hay các ngôi vị Thiên Chúa[7] (vì Thiên Chúa ban ơn, chứ không chuyển cầu cho trước Tòa ai cả), trong khi có thể chọn làm tước hiệu[8].
2. Làm thế nào để đặt Thánh Bổn mạng cách hợp pháp ?
• Được chọn bởi các giáo sĩ và giáo dân nơi sẽ được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Bổn mạng, hoặc bởi những người liên hệ trong trường hợp các Dòng tu, hiệp hội, tổ chức, hay các nhóm ; qua cách thức : hoặc là tham khảo ý kiến hay bỏ phiếu, hoặc là thỉnh cầu hay thu thập chữ ký[9].
• Phải được thẩm quyền Giáo Hội chấp thuận[10] ;
• Và phải được Bộ Phụng tự phê chuẩn[11].
• Chỉ được chọn một thánh Bổn mạng duy nhất, trừ khi …[12] ;
• Được chọn làm Bổn mạng : Đức Trinh nữ Maria, các thiên thần, các thánh. Các Á Thánh chỉ được chọn khi có phép đặc biệt của Tòa Thánh. Tuyệt đối không được chọn Thiên Chúa Ba Ngôi hay một Ngôi Vị Thiên Chúa[13].
Nhận xét : Do đó, áp dụng qui định này, các thánh Bổn mạng tại các giáo xứ Việt Nam, nếu chưa được Bộ Phụng tự phê chuẩn, thì không thực sự là thánh Bổn mạng một cách đúng nghĩa và hợp pháp, và như vậy không được mừng kính trong phụng vụ[14].
3. Đặt tước hiệu khi nào ? Có phải chỉ chính thức đặt khi cung hiến ?
• Tước hiệu được đặt khi nhà thờ được làm phép hay cung hiến[15], và chỉ một tước hiệu mà thôi[16].
• Tước hiệu có thể chọn là : Thiên Chúa Ba Ngôi hoặc từng Ngôi Vị Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria với những danh hiệu đã được mừng kính trong phụng vụ, các thiên thần, các thánh. Các Á Thánh chỉ được chọn khi có phép đặc biệt của Tòa Thánh[17].
• Một khi đã cung hiến, thì không được thay đổi tước hiệu nữa[18].
4. Giá trị, quyền lợi của Tước hiệu và thánh Bổn mạng :
• Chỉ những thánh Bổn mạng đã được thiết đặt hợp lệ hoặc đã được chấp nhận từ lâu đời do một truyền thống rất xa xưa mới được mừng kính trong phụng vụ. Còn những thánh Bổn mạng theo nghĩa rộng, và chỉ tự phát do lòng đạo đức của dân chúng thì không được phép mừng kính trong phụng vụ[19].
• Được mừng lễ ở bậc trọng thể ngày mừng tước hiệu nhà thờ[20], cũng như ngày kỷ niệm cung hiến nhà thờ[21].
• Được mừng ở bậc trọng thể lễ Bổn mạng chính của giáo xứ, giáo phận tại chính nơi đó[22], cũng như lễ mừng Bổn mạng chính, Đấng sáng lập, và tước hiệu của Dòng tu, tu hội[23].
• Được mừng ở bậc lễ kính lễ Bổn mạng chính của giáo phận[24], và lễ kỷ niệm cung hiến nhà thờ Chánh Tòa tại các nhà thờ khác trong giáo phận, không phải nhà thờ Chánh Tòa[25].
Lm. Nguyễn văn Mạnh, giáo phận Đà Lạt
[1] X. Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và niên lịch, số 53, 4c.
[2] X. Ibidem, số 4d.
[3] X. Ibidem, số 4a ; X. Thánh Bộ Phụng tự, Huấn thị Lịch riêng, số 28, trong EV 3/2604.
[4] X. Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và niên lịch, số 53, 4d.
[5] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 1, trong EV 4/2341.
[6] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 2, trong EV 4/2342.
[7] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Huấn thị Lịch riêng, số 28, trong EV 3/2604.
[8] X. Ibidem, số 34, trong EV 3/2610.
[9] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 6, trong EV 4/2346.
[10] X. Ibidem, số 7, trong EV 4/2344.
[11] X. Ibidem, số 8, trong EV 4/2348.
[12] X. Ibidem, số 5, trong EV 4/2345.
[13] X. Ibidem, số 4, trong EV 4/2344 ; X. Thánh Bộ Phụng Tự, Huấn thị Lịch riêng, số 28, trong EV 3/2604.
[14] X. Thánh Bộ Phụng Tự, Qui tắc Patronus về việc đặt tên thánh Bổn mạng, số 11, trong EV 4/2351 ; Idem, Huấn thị Lịch riêng, số 29, trong EV 3/2605
[15] Thánh Bộ Bí tích và Phụng tự, Ordo dedicationis ecclesiae et altaris, 29.5.1977, Praenotanda, số 4, trong EV 6/201.
[16] X. Ibidem, số 4, trong EV 6/201.
[17] X. Ibidem, số 4, trong EV 6/201 ; Huấn thị Lịch riêng, số 34, trong EV/2610.
[18] X. Giáo luật, đ. 1218 ; Theo luật cũ, dù chỉ mới làm phép chứ chưa cung hiến, cũng không còn được thay đổi tước hiệu nữa (x. CIC 1917, đ. 1168 § 1).
[19] X. Huấn thị Lịch riêng, số 29, trong EV 3/2605.
[20] X. Thánh Bộ nghi thức, Những Quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch, số 59,4c.
[21] X. Ibidem, số 59,4b ; Thánh Bộ Bí tích và Phụng ự, Ordo dedicationis ecclesiae et altaris, Praenotanda, số 27, trong EV 6/228.
[22] X. Thánh Bộ nghi thức, Những Quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch, số 59,4a.
[23] X. Ibidem, số 59,4d.
[24] X. Ibidem, số 59,8a.
[25] X. Ibidem, số 59,8b.