Từ rất lâu, khi nói về tín lý Đức Mẹ Đồng Trinh, trừ những người Công Giáo đạo”gốc” đã tin một cách nhiệt thành, không thắc mắc, còn một số những người theo đạo “vợ” thì không tin, và đôi khi diễu cợt với bà vợ sùng đạo về vấn đề này. Ngoài ra, những người không cùng tôn giáo, đôi khi cũng gầy ra các cuộc tranh luận mà một số người Công Giáo, vì không quen lý luận, có thể bị “bí” và chỉ trả lời được là “Giáo Hội đã dậy như vậy, thì tôi tin vậy!”
Thiệt ra, chỉ cần có một chút bình tâm suy nghĩ, một tín hữu bình thường cũng có thể trả lời được câu hỏi này. Trong một buổi mạn đàm với một số văn hữu trong đó có Nhà văn PNN, một Phật Tử, người viết đã ghi lại được một số ý kiến xem ra rất hợp lý và dễ hiểu. Tại sao lại không thể có Đức Mẹ Đồng Trinh được? Đơn giản như 2 với 2 là 4.
Này nhé, ta thử đặt hai tiền đề như sau:
-Tiền đề 1: Giả sử như đã có niềm tin Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, tự trời hóa thân xuống thế làm người với quyền năng của Chúa Thánh Thần.
-Tiền đề 2: Mẹ Maria là một phiên bản trung gian để Thiên Chúa thực hiện việc Chúa Giêsu hóa thân.
Thế thì, ta có 3 suy luận:
-Suy luận 1: Vì Chúa, Đấng Thượng Đế Chí Tôn muốn nhờ “Cô” Maria như một môi trường để thực hiện việc Chúa hóa thân làm người, Đức Mẹ phải là một phiên bản tốt đẹp nhất trong vài tỷ con người đã được sinh ra, không tầm thường như vài tỷ thụ tạo khác. Vì thế, Đức Mẹ phải còn đồng trinh khi sinh Chúa Giêsu. Thiên Chúa KHÔNG THỂ xử dụng một con người có một tư tưởng tầm thường như những người đàn bà khác, huống chi lại là một người phụ nữ có đời sống vợ chồng bình thường như các con người kia. Cũng giống như một ông Chủ công ty chuyên sản xuất xe hơi, nếu thích đi du ngoạn vĩnh viễn trên một chiếc xe, thì sẽ làm cho mình một chiếc xe không thể giống như những chiếc xe khác, phải là một chiếc thật đặc biệt, toàn vẹn, và không một chiếc xe nào có thể cạnh tranh được.
-Suy luận 2: Vì Chúa là Đấng Thánh trên hết các Thánh, nên môi trường để Chúa ngự xuống bắt buộc phải tinh tuyền, sạch sẽ trên tất cả mọi tinh tuyền, sạch sẽ, vừa để rạng danh Chúa, vừa để cho loài người, muôn thế hệ về sau xưng tụng Mẹ mà không có một chút vướng bận tư tưởng vì sự không tinh sạch.
-Suy luận 3: Theo lời Thiên Thần, Mẹ Maria nhận lời làm vợ của Thánh Giuse chỉ với mục đích hợp thức hóa sự xuất hiện của Chúa Giêsu như một con người bình thường. Chúa không muốn đột nhiên hiện diện với hào quang, với Thiên Thần dọn đường rầm rộ. Như thế, sẽ mất đi sự trọn vẹn của Tình Yêu Thiên Chúa.
Nhà văn PN. cũng cho rằng nếu có ai cho rằng Mẹ Maria không còn đồng trinh, vì làm vợ của Giuse, nên sinh ra Giêsu, thì việc hóa thân làm Con Người của Chúa Giêsu đã không xẩy ra! Giêsu chỉ là kết quả của sự kết hợp giữa Ông Giuse và Bà Maria như hàng tỷ cặp vợ chồng khác. Như vậy, Giêsu không phải là Thiên Chúa! Giêsu chỉ là con máu huyết của Giuse và Maria, dòng dõi Vua Đavít! Giêsu có thể là một vị Thánh sống đã tử vì đạo mà thôi. Như vậy, nếu không tin Mẹ Maria Đồng Trinh, tòan bộ tín lý về Chúa Giêsu sẽ sụp đổ!
Diễn giải thêm một hướng khác, nếu Maria không đồng trinh, thì khi truyền tin, thay vì câu nói: “Thiên Chúa ở cùng bà... Bà sẽ hạ sinh một trai, đặt tên là Giêsu”, Thiên Thần có thể sẽ thông báo cho Maria như sau: “Con của ông bà là một người có đức hạnh, nên sau khi được sinh ra, nhờ đời sống giản dị, hãm mình, đọc sách nhiều, sẽ làm một đấng Thánh Sống. Tiếng tăm con bà sẽ lẫy lừng được vài năm rồi chết khổ, chết nhục. Sau đó, mới lên Trời và làm Thánh bên cạnh Đức Chúa Trời. Bà có đồng ý như vậy không?”
Và khi Maria hỏi lại: “Việc ấy xẩy ra thế nào được, khi tôi đã khấn giữ mình đồng trinh?” Thiên Thần sẽ trả lời ngay: “Bà cứ việc lấy Giuse làm chồng, quên việc khấn hứa đó đi, mà phải vâng lời Đức Chúa Trời, để hạ sinh một đứa con mà Đức Chúa Trời thích! Đức Chúa Trời sẽ nhận người này làm con của mình!”
Tóm lại, theo như Phật Tử PN., những ai đã tin Thiên Chúa xuống thế làm người và cũng tin rằng, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria vẫn còn đồng trinh khi hạ sinh Thiên Chúa mới thấy thoải mái trong đức tin của mình và mới mới nghiệm thấy tất cả những điều Thánh kinh ghi chép đều xuôi chẩy và hòa hợp. Trong Thánh kinh, điều nọ liên kết với điều kia, tất cả các ý tưởng và diễn tiến đều mạch lạc, bổ xung cho nhau, trong một chiều hướng dựng lại toàn bộ công trình của Đấng Sáng Thế, Đấng Cứu Chuộc, và Đấng Ở Lại với Loài Người cho đến ngày tận thế. Những ai không tin Đức Mẹ Đồng Trinh thì cũng không thể tin việc Chúa Giê Su hóa thân xuống thế làm người!
Đó là ý kiến của một Phật Tử, còn người Công Giáo chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên, từ khi học giáo lý đến khi trưởng thành, chúng ta đã được giải thích nhiều lần, kể đi kể lại hàng ngàn lần, đoạn Thánh Kinh tả Thánh Thiên Thần hiện xuống truyền tin cho Đức Mẹ. Do đó, đức tin của chúng ta đối với Đức Mẹ, nhiều khi có phần cung kính hơn Thiên Chúa nữa. Nhiều nhà thờ dựng tượng Đức Mẹ lớn quá sức, vượt qua cả Thánh Giá. Đã có một vài cung thánh được trang hoàng bằng hình ảnh Đức Mẹ thay cho Thánh Giá của Chúa Giê Su. Vài thành phố, vài quốc gia đã thường xuyên tổ chức rước kiệu Đức Mẹ một cách vĩ đại với sự tham dự, và có thể vác kiệu Đức Mẹ, của các giới chức chính quyền. Có nơi, vì tôn sùng Đức Mẹ quá đáng, đã thờ kính những bình thánh mà nói rằng chứa “nước mắt Đức Mẹ!”
Tuy nhiên, bên cạnh sự “thờ kính” Đức Mẹ một cách trang nghiêm như thế, lại có một đoạn trong Thánh Kinh khiến cho một số người thắc mắc về sự đồng trinh của Đức Mẹ sau khi đã hạ sanh Chúa Giêsu. Đó là đoạn nói về “Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến thăm Chúa trong khi Ngài đang giảng trong thánh đường”. Câu này làm nẩy sinh ra một điều hồ nghi rằng Đức Mẹ đã sinh thêm nhiều em sau Chúa Giêsu. Thực tế, tiếng “anh, em” ở đây không nhất thiết phải là em ruột. Chúa cũng có rất nhiều anh em họ, bà con với Ngài trên phương diện trần thế. Nhất định không có “anh” ruột của Chúa Giêsu, vì như thế, câu “Đức Mẹ khấn giữ mình đồng trinh” lại không đúng nữa. Nhất định không có em ruột, vì cả Thánh GiuSe cũng đã khấn giữ mình đồng trinh. Ngài chấp nhận Mẹ Maria làm vợ Ngài chỉ vì Ngài vâng theo lời Thiên Thần mà thôi. Hơn nữa, sau khi hiểu được rằng Đức Mẹ đã thụ thai CHÍNH CHÚA TRỜI , Đấng Chủ Tể tạo vật, Đấng mà ngài tôn thờ qua bao dòng họ, thì lại càng cung kính với Đức Mẹ, nếu không muốn nói rằng Ngài cung kính sự hiện diện của Đức Mẹ. Ngài nhất định phải đối xử với Đức Mẹ như là chủ tể của mình. Mỗi lần nhìn thấy Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu, Ngài lại giật mình, nhắm mắt lại, sợ hãi, vâng phục. Với tư cách hiền lành, điềm đạm của Ngài, chúng ta có thể tin rằng, Ngài làm mọi việc trong nhà và đối xử với Đức Mẹ bằng một lòng kính cẩn. Hãy tưởng tượng lần đầu tiên được bế Chúa Giêsu trong tay, Ngài đã run rẩy, hoảng hốt như thế nào...
Ngoài ra, những ai tin rằng Chúa đã tạo ra loài người với các chi thể, tế bào... thì nhất định Chúa cũng có thể tạo nên một con người đi ra ngoài khuôn khổ bình thường. Trên thế giới, đã có biết bao nhiêu chuyện kỳ dị đi ra ngoài nhận thức của con người. Có những con người hoặc sinh vật có hình thức hay trí tuệ lạ lùng, khác hẳn những con người hoặc sinh vật bình thường. Nhìn vào loài người, ta thấy có những con người tuyệt luân, thông minh tuyệt đối, vừa đẹp vừa tài vừa có tâm hồn tốt vô cùng vô tận. Một số thần đồng mới chỉ lên ba đã đọc sách và làm toán, có em bé chín tuổi tính nhẩm nhanh hơn máy tính, trong khi lại có kẻ ngu đần không thể tả. Nhìn vào loài vật, nếu có những chó sói đi nhặt người về nuôi, những chú chó biết trả thù cho chủ, cá heo biết nhận lệnh của quân đội đi trinh sát quân địch theo lệnh, những con cá biết vừa bật đèn vừa dùng cần câu để táp mồi, lại cũng có loài ong biết bay theo vòng trôn ốc, hoặc hình số 8, hoặc đường cung parabol để báo cho đồng loại biết chương trình đi hút mật hôm đó có kết quả như thế nào... Không kể nhiều giống vật sinh trưởng ngoài hệ thống “gene” của mình để trở thành những đích cho người ta nghiên cứu, nhiều sinh vật lạ dưới đáy biển, trên mặt đất, trong nước, và nhiều kỳ quan thiên nhiên thật kỳ diệu khiến cho khoa học phải say mê theo dõi. Điều chứng minh mạnh mẽ nhất về vấn đề có thai mà không nhất thiết theo phương pháp thông thường là gần đây khoa học đã liệt kê ra một số trường hợp có những người đàn ông mang thai trong bụng, vài người khác mang những cái thai trên da (không phải trong dạ con) trong một thời gian rất lâu, một phụ nữ đã mang một bào thai chết trong da cả vài chục năm!
Ngoài ra, nếu nói về phương diện tâm linh, vì Chúa là Thiên Chúa cả vũ trụ lớn rộng mênh mông mà trí óc con người không thể tưởng tượng ra đủ chiều kích được, nếu lại chọn một người đàn bà tầm thường như mọi người vợ, người mẹ khác để làm Mẹ Chúa Giêsu, thì Thiên Chúa, quả thật, thiếu sáng kiến, thiếu tài năng, và thiếu trí tuệ. Chúa không còn là Đấng Toàn Năng, Toàn Trí, và Toàn Nhân nữa rồi. Chúa cũng bị bế tắc không tìm ra giải pháp toàn vẹn cho việc gửi Con Một Ngài xuống trần gian và đã phải nhờ một xác thịt bình thường, thụ thai theo phương pháp bình thường để gửi con Ngài vào đó... Bà Maria, nếu như thế, quả thật, là một người đàn bà tầm thường như những người nữ khác, không phải là đấng “đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ...” như trong câu kinh mà tỷ người trên thế giới đã đọc từ bao năm nay.
Thực tế, cũng theo nhận xét của nhà văn PN., Bà Maria là người phụ nữ đặc biệt nhất hành tinh, vì được Thiên Chúa chọn giữa hàng tỷ tỷ người để làm Mẹ Ngôi Hai. Mẹ Maria không cần đẹp rực rỡ như tài tử Hollywood để cho thiên hạ ngắm mẹ qua sắc đẹp. Mẹ lại không cần giầu sang mênh mông để con cái Mẹ cứ đến xin tiền. Mẹ cũng không cần tài năng xuất chúng để mỗi lần nói đến Mẹ, người ta chỉ nghĩ đến tài năng của Mẹ, như tài thêu, may, tài nội trợ, nấu cơm, hay tài nói tiên tri. Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, không có chi đặc sắc hơn ai.
Vậy, tại sao Mẹ lại được chọn? Có lẽ là vì Tình Yêu của Mẹ rộng lớn vô biên, không một con người nào trên trái đất này sánh nổi. Mẹ đã được vinh dự làm Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người chính vì Tình Yêu bao la đó. Như một câu ngạn ngữ hay được dùng trong dân gian: “Lòng thương đã động đến Trời...”, từ lúc nhận lệnh của Thiên Chúa cho đến 33 năm sau, Mẹ đã yêu thương Đấng Cứu Độ này với tất cả tâm hồn của mình. Biết là Chúa chỉ đến trên thế gian một thời gian nào đó, biết là Chúa sẽ bỏ Mẹ để trở về với Chúa Cha, biết là công việc chăm sóc, gìn giữ Thiên Chúa là một công việc vô cùng khó khăn, Mẹ vẫn yên lặng chấp nhận và thương yêu Chúa vừa với tư cách là một đầy tớ của Chúa vừa với tư cách là Mẹ của Chúa! Sau đó, khi con Mẹ bị giải ra tòa, mặc dù nhìn thấy con Mẹ bị hành hạ, bị giết một cách thê thảm, Mẹ không hề cất tiếng oán trách loài người và chỉ biết lặng lẽ ủ dấu tình yêu bao la của mình sau thái độ thinh lặng và cam chịu của một người đầy tớ trung tín. Mẹ đi theo Con Mẹ trên suốt đường Thánh Giá mà Mẹ không kêu gào, khóc lóc tầm thường như những người phụ nữ kia. Mẹ đứng lặng nhìn Con Mẹ đóng đinh trên thập giá, máu me bê bết, thịt da rách toang, Mẹ chỉ giữ thái độ thinh lặng, nhưng ai cũng biết Trái Tim Mẹ đã bị tan nát đến nỗi Mẹ không cất tiếng nói được, Mẹ không khóc được, không giơ tay lên trời được. Mẹ đứng đó, ủ rũ, thê thảm, như đã hóa đá. Không có hàng chữ nào trong Thánh Kinh tả Mẹ có thái độ khóc lóc, vật vã, nhưng chính vì thế, vì sự im lặng của Thánh Kinh, mà sự đau khổ của Mẹ đã vượt qua sách vở, đã bàng bạc, mông lung, đã bao trùm thiên hạ.
Không những yêu thương Thiên Chúa, Mẹ Maria cũng thương cả loài người tội lỗi nữa. Đã có biết bao câu chuyện kể về những ơn Mẹ làm cho loài người. Ở Việt Nam, ngoài sự kiện La Vang, khi việc vượt biên đã phổ biến rộng khắp, có rất nhiều Phật Tử đến khấn Mẹ cho đi thoát, và họ đã được thỏa nguyện. Trên thế giới này, còn hàng triệu triệu câu chuyện như thế mà chưa có ai có thể tổng kết lại được. Như thế, Mẹ Maria Đồng Trinh, sau Thiên Chúa, là một biểu tượng Tình Yêu vĩ đại mà từ thuở khai thiên lập địa cho đến tận thế, sẽ không có một biểu tượng thứ hai. MARIA LÀ TÌNH YÊU, hai thực thể này đã quyện lẫn vào nhau, rực rỡ, chứng tỏ thêm một lần nữa THIÊN CHÚA LÀ TOÀN NĂNG, TOÀN NHÂN, và TOÀN TRÍ. Vĩnh viễn.
Chu Tất Tiến