Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

THÁNG MƯỜI MỘT, NGHĨ SUY VỀ CÁI CHẾT

                                                 Jos.Vinc. Ngọc Biển
 Tháng Mười Một lại về, trong tâm trí bạn và tôi.  Tháng Mười Một là tháng mà Giáo Hội mời gọi ta hãy suy nghĩ về cái chết của mình và tha nhân. Khi ta suy nghĩ về sự chết, ta sẽ nhận ra sự yếu đuối của thân phận con người, sự mong manh và tính bất định của sự sống. Như vậy, khi suy nghĩ về sự chết thì cũng là lúc ta suy nghĩ về sự sống. Bởi vì nhờ suy nghĩ về sự chết mà ta có thể sống tốt cũng như hài hòa hơn trong các mối tương quan với tha nhân, đồng thời thêm xác tín mạnh mẽ vào sự sống trường sinh mai hậu. Nhà thơ R.Tagore đã viết thật chí lý khi ông dám chấp nhận cái chết là một sự thật:
“Cuộc sống không phải là một cái gì bền vững và thường hằng, đó là một phát hiện đau đớn, nhưng lại đem đến cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng” và “Cái chết đã đem lại cho tôi một cái nhìn đúng đắn hơn”[[1]]

Bạn thân mến!
Khi chọn tháng mười một là tháng dành riêng để cầu nguyện cho các linh hồn, hay những dịp cầu hồn, an táng, những dịp kính nhớ tổ tiên...Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình một mặt tưởng nhớ tới những người đã khuất để cầu nguyện cho họ. Mặt khác, Giáo Hội cũng muốn chính những người còn đang sống hãy nghĩ đến thân phận của mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ phải ra đi như những người thân yêu của mình đã lần lượt lìa bỏ thế gian để về với thế giới bên kia. Vậy, đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Cuộc đời sẽ đi về đâu? Bên kia cõi chết là gì? Qua bài viết này, người viết xin được chia sẻ tính hiệp thông trong mầu nhiệm Giáo Hội. Đồng thời cũng là một suy niệm về cái chết trong cuộc sống thực tại. Và,  đây cũng là lời mời gọi mọi người hãy suy nghĩ về cái chết để được sống, đáng sống và tồn tại. Tất cả, xin được khiêm tốn chia sẻ những gẫm suy về ý nghĩa cái chết của những người có niềm tin.

Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.

Vậy hiếu kính cha mẹ là yêu mến, biết ơn, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và cầu nguyện cho các ngài khi đã qua đời. Nhưng mang trong mình những giới hạn nhất định, nên nhiều khi chúng ta đã không thể chu toàn được với các ngài. Thật vậy, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hoà đồng giữa anh chị em ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.

Truyền thống của Giáo Hội dạy cho ta biết rằng: các linh hồn là những người đã một thời sống cùng, sống với chúng ta trên cõi trần này, nhưng các ngài đã ra đi trước. Vì mang trong mình thân phận của con người, nên nhiều khi các ngài mang lấy tội mà đi vào cõi chết. Những  lỗi lầm đó có thể là do yếu đuối của các ngài, có khi vì chúng ta mà các ngài phải bị liên luỵ...như vậy, trước khi về hưởng trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc bên Chúa như các thánh, các ngài phải thanh luyện cho xứng đáng trước sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa. Những người còn sống có thể dâng thánh lễ, làm các việc lành đạo đức, dâng những hy sinh, hãm mình...để cầu nguyện cho các linh hồn. Mặt khác, khi cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu được rằng, đây còn là thái độ của lòng biết ơn. Vì: trước hết, ta sống là nhờ cha mẹ và người thân. Quả vậy, chúng ta lớn dần lên trong sự vất vả một nắng hai sương của cha mẹ. Từ những đêm thức trắng lo toan, đến những tần tảo quanh năm suốt tháng để ta được nuôi dưỡng nên người. Trong nụ cười của chúng ta có sự chết (hy sinh) của cha mẹ. Trong niềm vui của chúng ta có đau khổ của đấng sinh thành. Và thế rồi, dầu cha mẹ có khuất núi, thì các ngài lại đang hiện diện nơi con cháu là chúng ta, vì chúng ta mang trong mình huyết nhục cũng như sự hy sinh của các ngài[[2]]. Như vậy, với niềm tin vào Đức Kitô chết và Phục Sinh, vào những lời Chúa hứa, chúng ta phó thác người thân chúng ta nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Ngoài việc đọc kinh, cầu nguyện...cho các linh hồn thì việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Nhưng điều tốt này lại có ích cho người còn sống nhiều hơn. Bởi lẽ, từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Suy nghĩ về vấn đề này, thánh Augúttinô nói: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến”. Thi sĩ  R.Tagore cũng nói: “Với ông, sự sống và cái chết chỉ là hai bờ của một dòng sông, là hai bầu vú mang đầy sữa ngọt ngào trên ngực trần của người mẹ: “Khi mẹ giằng con khỏi vú bên này, con oà khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia”[[3]]. Cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là ở chỗ: ba tấc đất sâu, và một nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Chính vì thế mà Giáo Hội muốn chúng ta không dừng lại ở những tấc đất, nấm mộ đó mà hãy đi tìm cho mình một ý nghĩa đằng sau cái chết. Muốn cái chết của mình thật sự có ý nghĩa, thì trước tiên hãy nghiêm túc suy nghĩ ngay đến cái chết của chính mình trong cuộc sống hiện tại, hầu chuẩn bị cho xứng đáng khi đến trình diện với Chúa trong ngày chết của chúng ta. Thoạt nghe, có vẻ vô lý! Tại sao đang sống mà lại phải suy nghĩ về cái chết?

Thiết nghĩ, trước khi bàn về vấn đề này, tưởng cũng nên nhắc lại những tâm tình trong Kinh Thánh và lời của các các thánh nói về cái chết: “Chính anh chị em đã rõ: ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya.” ( 1Tx 5, 2); " Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ." (Lc 12,40);còn thánh Grêgory đã nói về cái chết như sau: “Chúng ta không biết trước sẽ chết giờ nào, để chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng.” ; thánh Bênađô tiếp: vì chúng ta có thể chết bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên muốn chết lành, được cứu rỗi, phải sẵn sàng đón nhận sự chết: “Thần chết đến bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi nó.”

Suy niệm đến đây, tôi sực nhớ cách đây mấy năm, tôi có quen một thầy tu, khi đến thăm, tôi thấy trên bàn học của thầy luôn có một chiếc quan tài nhỏ, trong chiếc quan tài đó có tấm hình của thầy và một bản cáo phó mà chính thầy viết cho mình. Khi hỏi thì được thầy giải thích như sau: chiếc quan tài này là hình bóng của sự chết, bởi vì nó sẽ ôm trọn xác chết khi con người ta hết hơi. Con người khi còn sống có là vua chúa quan quyền, hay người phu quét rác; dù là tỷ phú hay người ăn xin; dù là giáo hoàng hay giáo dân...chết là hết. Cái chết là sự thật. Nên mỗi khi đi đâu về, tôi thường hay ngắm nó, và suy nghĩ về cái chết của chính mình...từ đó tôi lo sám hối về những thiếu xót và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Còn bài cáo phó mà tôi tự tay viết cho chính mình là vì tôi thiết nghĩ: điều tốt cho tương lai mà tôi muốn, thì hãy chuẩn bị ngay từ bây giờ. Điều tốt mà tôi mong muốn cho tương lai là gì nếu không phải là được ở bên Chúa. Vậy ngay từ giây phút này, tôi hãy lo sống sao cho đáng sống, để cái chết của tôi thật sự là một cuộc đi về như lời bài hát: lạy Chúa, bao ngày tháng con hằng mơ ước, tìm về bên Chúa, niềm vui suối an hoà...hay “Chúng ta  biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1). Vì thế, cái chết là “một cõi đi về” và “Hãy để cuộc đời tươi đẹp như hoa mùa hạ, và hãy để cái chết về như lá mùa thu”[[4]4]

Nghe đến đây, tôi thực sự cảm thấy "sốc". Sốc vì tôi sực nhớ đến câu chuyện trong Kinh Thánh: nhân vật chính của câu chuyện là "một người giàu có", ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Ông nói: "Ta sẽ tích trữ tất cả thóc lúa và của cải vào đó" và "ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm, cứ nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi cho đã". Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: "Ðồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi" lúc đó ngươi tính sao? (x. Lc 12,16 -20). Và chuyện đã xảy ra đúng như vậy. Ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này...Sốc nữa vì đây là sáng kiến táo bạo của thầy. Nhưng nghĩ suy một chút, tôi mới nhận ra đây là một chân lý. Bởi đã có nguời định nghĩa cuộc sống là một hành trình để tiến tới… cái chết. Hay như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1Cr 15,32). Thật thế, mỗi ngày sống là đời ta ngắn lại; mỗi hoàng hôn ta mất đi một ngày. Sống là đang đi dần tới cõi chết. Sự sống và cái chết nó hoà quyện lại với nhau.

Thật vậy, cái chết là một người bạn thân thiết với con người. Chả thế mà thánh Phanxicô Assisi đã gọi nó là "Chị Chết". Chị Chết này dù muốn dù không, Chị cứ đến với cuộc đời ta như người nhà. Không cần báo trước, chẳng cần ai dẫn đường. Chị đến như một người trộm. Như vậy, thân phận con người là một cái gì đó mỏng dòn dễ vỡ. Cuộc sống nơi dương gian này chỉ là tạm bợ. Ý thức được như thế là để xin ơn tha thứ, đồng thời cũng lo chuẩn bị cho mình một cái giấy thông hành trên hành trình về với Chúa. Giấy thông hành này không mua được bằng tiền, không có được bằng quyền, mà phải đánh đổi bằng: lòng sám hối, sự canh tân, việc đạo đức, những hy sinh, hãm mình...sống và làm theo Lời Chúa dạy. Có thế, ta mới hy vọng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời với các thánh.

Ước mong sao, mỗi người hãy dâng những hy sinh hãm mình, đặc biệt là thánh lễ để cầu nguyện cho các linh hồn. Đây là tấm lòng biết ơn cao cả mà Chúa muốn nơi chúng ta khi tưởng nhớ đến người quá cố, đồng thời đây cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta khi sống trong mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông. Đàng khác, đây cũng là thời gian thuận tiện để ta suy nghĩ về chính cái chết của mình. Thật vậy, suy gẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, và giết chết cái tôi ích kỷ của mình như hạt lúc gieo vào lòng đất, để chỉ còn muốn sống cho Chúa cách trọn vẹn hầu phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân.

Như vậy, khi suy nghĩ về cái chết, chúng ta hãy có tâm tình như thánh Phaolô:“Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Và cuối cùng, cái chết đến với tôi như một niềm hãnh diện:“Còn tôi, đã đến giờ tôi phải  ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi Người” ( 2 Tm 4, 6-8). Chỉ có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi Chúa, còn chết trong Chúa là một giải thoát, đưa chúng ta vào sự sống viên mãn của Ngài.

Để kết thúc bài viết này, xin đặt mình vào tâm tình của người sắp ra đi và mong muốn được khắc ghi trên chính bia mộ của mình những hàng chữ sau như một lời chăng trối cho người còn sống:

“Những gì tôi đang có, xin trả lại cho đời.
Những gì thuộc về tôi, nay không còn nữa.
Những gì tôi cho đi, từ nay thuộc về tôi.
Trao ban là còn mãi – Tình yêu không thể chết.”


[1] X. R.Tagore, thời đại, tr. 185.
[2] Gm Giuse Vũ Văn Thiên, Sự sống – sự chết, truy cập ngày 22-12-2012, trên: http://www.hdgmvietnam.org/su-song-%E2%80%93-su-chet/2821.54.11.aspx.
[3] R.Tagore, tập thơ dâng, bài 95.
[4]. Đào Xuân Quý, những cánh chim bay lạc, tr. 45.