LM . Phanxiô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Trong phạm vi bài viết này, tôi không muốn đề cập nhiều đến những lý thuyết hay nền tảng thần học cũng như giáo lý của Giáo Hôi về vai trò và sứ mạng của linh mục trong Giáo Hội, vì thiết nghĩ các linh mục và rất nhiều giáo dân ngày nay đều biết rõ.
Điều tôi muốn nói ở đây là trong thực tế, linh mục phải hành xử thế nào để xứng đáng là hiện thân của Chúa Kitô xuyên qua chính đời sống, lời nói và việc làm của mình trước mặt người khác; trước hết là các tín hữu được trao phó cho mình săn sóc và phục vụ về mặt thiêng liêng- và đặc biệt sau nữa- là trước những người chưa biết Chúa Kitô để cảm hóa và mời gọi họ nhận biết và tin Chúa Kitô qua gương sống chứng nhân của mình. .
Với tư cách là cộng sự viên đắc lực, thân cận của Giám mục, linh mục thi hành sứ vụ rao giảng, dạy dỗ và cai trị trong giáo hội địa phương ( tức giáo xứ, giáo Phận) với tất cả thành tâm , thiện chí và xác tín về chức năng và vai trò của mình được nhận lãnh từ bí tích Truyền Chức Thánh cho phép linh mục được chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa KItô, “Thầy Cả Thượng Phẩm..theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5: 10)
Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ngày nay, đặc biệt là ở các nước Âu Mỹ, người ta không những bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa vật chất vô luân ( immoral materialism) mà đặc biệt còn bị ảnh hưởng ngày một nghiêm trọng bởi trào lưu tục hóa (secularization) đưa đến thực hành vô thần (practical atheism) , chối bỏ Thiên Chúa , “hạ bệ Kitô hóa” (de-christionization). và dửng dưng với mọi tôn giáo nói chung ( Indifference to religions).
Thực trạng này đã và đang là một thách đố to lớn cho những ai muốn sống niềm tin có Thiên Chúa tốt lành, đã yêu thương và tha thứ cho con người nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô.
Để đối phó với trào lưu nguy hại nói trên, ngày 12 tháng 10 năm 2012, Tòa Thánh đã công bố quyết định mới của Đức Thánh Cha Bê-nê-đích-tô 16 ( nay đã về hưu) cho thiết lập một Văn Phòng hay Hội Đồng mới của Tòa Thánh ( New Pontifical Council) với chức năng Tân Phúc Âm hóa ( New Evangelization) như một nỗ lực nhằm chống lại khuynh hướng tục hóa ở các quốc gia Âu Châu và Mỹ châu nói chung. Hội Đồng này do Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella làm Chủ Tịch.
Sự kiện trên cho thấy là Đức Thánh Cha đã tỏ ra rất quan tâm về nguy cơ tục hóa đang đe dọa những giá trị và chân lý của Phúc Âm cũng như đời sống luân lý, đạo đức của con người nói chung, và cách riêng, của người tín hữu Chúa Kitô đang sống trong hoàn cảnh suy đồi đạo đức của thế giới ngày nay.
Đặc biệt, Đức Thánh Cha đương kim Phanxicô cũng đã lưu ý toàn Giáo Hội về thực trạng “tôn thờ tiền bạc” ( cult of money) của thế giới, là nguyên nhân chính của mọi bất công xã hội và thống khổ của con người đang sống dưới quyên cai trị của những kẻ tham tiền, tham quyên cố vị để vơ vét của cải vật chất hầu hưởng thụ và làm giầu, trong khi dửng dưng trước sự nghèo đói và bất công của xã hội dưới quyền cai trị vô lương tâm của họ..
Riêng đối với hàng giáo sĩ tu sĩ , Đức Thánh Cha Phanxicô không những khuyên mà còn làm gương cụ thể cho mọi người về đức khó nghèo của Phúc Âm và của Thánh Phanxicô Khó khăn mà Đức Thánh Cha đã chọn làm thánh hiệu cho triều đại Giáo hoàng của ngài. Cụ thể, mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã ngưng chức một giám mục Đức vì đã phung phí tài sản của Địa Phân để xây biệt thự lộng lẫy cho mình, trái với lời khuyên khó nghèo của Phúc Âm.
Mới đây nữa , nhân dịp gặp gỡ các nhân viên của các tổ chức từ thiện và và các tù nhân tại thành phố Cagliari ( Ý) Đức Thánh Cha Phan xicô đã nói với họ như sau:
"Một số người đã muốn làm nổi bật việc làm tốt của họ. Họ không ngừng nói về người nghèo, nhưng sau đó lại lợi dụng những người nghèo khó này để trục lợi cho cá nhân mình....Đó chắc hắn không phải là ý muốn của Chúa Giê-su . Tôi đi xa hơn nữa để nói đó là một tội nghiêm trọng. Đó là lợi dụng những người nghèo khó , những người là hiện thân của Chúa Giê-su để tô điểm cho chính mình. Đây là một tội nghiêm trọng."
Như thế , linh mục phải là người nêu gương sáng trước tiên về đức khó nghèo của Chúa Kitô, " Người vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được giầu có." ( 2 Cor 8:9) .
Cụ thể, Linh mục cần thiết phải:
I- Tách mình ra khỏi mọi dính díu với quyền lực và tham vọng trần thế để không vô tình hay cố ý làm tay sai cho một chế độ chính trị nào để cầu lợi cá nhân và nhiên hậu gây thương tổn nặng nề cho chức năng (competence) và vai trò của mình là linh mục của Chúa Kitô.
Trong điễn từ đọc tại Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Mẹ Lên Trời ở Parlemo ( Italia) trước hàng trăm Giám mục, Linh mục, và Tu sĩ nam nữ ngày 3 tháng 10 năm 2012, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 ( đã về hưu ) đã nói riêng với các linh mục hiện diện như sau “ chính Chúa Kitô, chứ không phải thế gian -đã thiết lập cương vị cho linhmục”…Và với cương vị đó, linh mục phải luôn chú tâm đến ơn cứu độ và Vương Quốc của Thiên Chúa.” ( Christ establishes the priest’s status, not the world… as a priest, he must be always with a view to salvation and the Kingdom of God.( cf.L’ Osservatore Romano. Oct 6, 2010). Hơn nữa, linh mục “ không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu không là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác với đời sống thế tục” ( cf. Presbyterium Ordinis.no.3)
Trước đó, trong thư Thứ Năm Tuần Thánh gủi cho các linh mục, Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ( sắp được tôn phong hiển thánh ngày 27-4 năm nay) đã lưu ý các linh mục như sau:
" Những nỗ lực nhằm biến linh mục thành người thường dân là làm hại Giáo Hội. Điều này không có nghĩa là một cách nào đó, linh mục phải thờ ơ không quan tâm gì đến những âu lo của người giáo dân ( thường dân=laity); ngược lại, phải rất gần gũi họ theo gương Thánh Maria Gioan Vianney, và trong chiều kích lo cho phần rỗi của họ ( giáo dân) và cho sự mở mang Vương Quốc Thiên Chúa.Linh mục là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác với đời sống thế tục.Đây là điều căn cốt của Giáo Hội nhờ đó căn tính của linh mục được bảo vệ ở chiều dọc. Đời sống và nhân cách của "cha xứ họ Ars" ( Cure' of Ars) đặc biệt là hình ảnh rõ nét sáng ngời về đời sống và nhân cách của linh mục theo chiều kích nói trên." ( James P. Socias Scepter Publishers and Midwest Theological Forum, pp147-148)
Nói khác đi, linh mục chỉ có một vai trò và chức năng quan trọng nhất là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh để phục vụ hữu hiệu cho các linh hồn đang cần đến Chúa và mong lãnh nhận ơn cứu độ của Người. Do đó, linh mục tuyệt đối không có chức năng chính trị hay xã hội nào để tự nguyện làm tay sai phục vụ, tâng bấc, ca tụng hay chống đối một chế độ nào vì lý do thuần chính trị
Nhưng, nếu chế độ nào, không tôn trọng nhân quyền ( human rights), - không phải nhân quyền của thần học giải phóng, là thứ nhân quyền cổ võ đấu tranh giai cấp, tạo ra những “đàn kéc” chỉ biết ca tụng bợ đợ chế độ để an thân trục lợi- mà là những quyền căn bản của con người, như quyền tự do phát biểu, quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, quyền hành Đạo trong đó bao gồm việc tổ chức, đào tạo,và bổ nhiệm các chức sắc lãnh đạo trong các giáo hội địa phương. Nếu chế độ nào không tôn trọng những quyền căn bản này cũng như dung dưỡng cho những sa dọa, suy thoái về luân lý, đạo đức trong xã hội cai trị, thì linh mục -và nhất là Giám mục - phải có can đảm lên tiếng đòi hỏi chế độ phải tôn trọng những tư do căn bản và thiêng liêng của con người, cũng như mạnh mẽ lên án thực trạng suy thoái đạo đức và luân lý của xã hội để đòi nhà cầm quyền dân sự phải có biện pháp thích đáng để lành mạnh xã hội hầu tạo môi trưởng thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh đời sống tinh thần và đạo lý của người dân.
Xã hội vô luân, vô đạo và đầy bất công đang xô nhanh người dân xuống hố diệt vong vì thiếu nền tảng tinh thần cần thiết để giúp phân biệt con người với mọi loài cầm thú chỉ có bản năng và vô lương tri.
Như thế, làm ngơ hay nhắm mắt bịt tai trước những vi phạm về quyền thiêng liêng của con người và tụt hậu về luân lý, đạo đức, sẽ trở thành đồng lõa với chế độ, với xã hội làm phát sinh mọi tội ác vì thiếu căn bản đạo làm người.
II- Trong lãnh vực giảng dạy chân lý và cử hành các Bí tích,
Không linh mục nào được phép dạy và thực hành giáo lý , bí tích riêng của mình mà phải dạy cũng như thực hành đúng giáo lý( doctrines), tín lý ( dogmas) và kỷ luật bí tích của Giáo Hội,
Cụ thể, Giáo Lý và Kinh Thánh của Giáo Hội nhìn nhận sự kiện có tội Tổ Tông (Original sin) do Nguyên Tổ loài người là Adam và Eva vấp phạm khiến con người mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Nhưng chính tội bất trung này của Nguyên Tổ loài người lại được Giáo Hội sau này ca ngợi là “Tội sinh ơn phúc” ( Felix culpa) vì bởi tội này mà Thiên Chúa đã sai Con Một của Người là Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội. Ơn cứu chuộc và tha thứ này của Thiên Chúa còn lớn lao hơn tội bất trung của Nguyên Tổ rất nhiều như Thánh Phaolô đã dạy : “ Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa…Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5: 15).
Như thế ai phủ nhận hay đặt vấn đề “tội Tổ Tông” dưới ánh sáng tâm lý học là đã đi ngược lại với giáo lý hiện hành của Giáo Hội về vấn đề rất hệ trọng này.( x.SGLGHCG,số 402-407)
Mặt khác, cũng vì tội Nguyên Tổ đã gây ra “ sự chết của linh hồn” như Công Đồng Trentô đã dạy ( DS 1512), mà Giáo Hội cử hành bí tích Rửa Tội để xỏa hết mọi hậu quả của tội nguyên tổ mà còn tha một lần tất cả mọi tội cá nhân con người đã phạm cho đến lúc lãnh nhận Phép Rửa.. . Nhưng phép Rửa không trả lại cho con người tình trạng ơn phúc mà Adam và Eva được hưởng trước khi phạm tội. Nghĩa là sau khi được rửa rội, con người vẫn còn " những yếu đuối " và khuynh hướng nghiêng chiều về sự xấu, sự tội trong bản năng để cho con người phải cố gắng chiến đấu với ơn Chúa nâng đỡ để vươn lên trên đường hoàn hảo hầu được cứu rỗi. Do đó, linh mục không thể dạy sai lầm là phép rửa đã tha hết mọi tội nên không cần phải xưng tội nữa, cứ tự nhiên rước Minh Thánh Chúa ! Phép Rửa tha một lần hết mọi tội, nhưng sau đó, người ta vẫn còn có thể phạm tội nhiều lần nữa chứ , vì bản chất yêu đuối và vì con người còn có ý muốn tự do ( free will) để chống lại cám dỗ hay buông mình chiều theo sự xấu, sự tội để làm những sự dữ như giết người, cướp của, dâm ô trụy lạc...Đây là thực tế mà không ai có thể chối cãi được.
Liên quan đến bí tích Thánh Thể, không có giáo lý, giáo luật nào dạy mọi người tham dự Thánh Lễ đều được rước Minh, Máu Thánh Chúa, vì cho rằng đây là bữa tiệc Chúa mời mọi người tham dự ăn và uống không phân biệt Công Giáo hay Tin lành, trẻ em đã rước lễ lần đầu hay chưa. Ngược lại, giáo lý và giáo luật nói rõ : ai mắc tội trọng ,chưa kịp đi xưng tội thì không được làm lễ ( linh mục) và rước Minh Thánh Chúa ( giáo dân). ( x, giáo luật số 916; SGLGHCG số 1415).
Như vậy, không thể mời hết mọi người tham dự Thánh Lễ ở tư gia hay ở nhà thờ lên rước Mình Máu Thánh Chúa lấy lý do là Chúa đã tha hết mọi tội cho con người, như một số linh mục Việt Nam , Mỹ, và Cadada đã làm.( có nhân chứng kể lại). Chúa tha thứ tội lỗi cho con người. Đúng, nhưng người ta vẫn còn phạm tội trở lại vì bản tính yếu đuối , vì ma quỉ cám dỗ và vì ý muốn tự do như đã nói ở trên.
Lại nữa, linh mục cũng không được phép từ chối ban bí tích rửa tội, rước lễ lần đầu hay chứng hôn cho ai, vì cha mẹ của trẻ em hay người lớn không đóng đủ tiền cho giáo xứ như đã xẩy ra ở một địa phương kia. Đáng nói hơn nữa, linh mục chánh xứ không được phép đe doa “ rút phép thông công = ex-communication” cho ai vì bất cứ lý do gì. Chỉ có Giám mục Giáo phận mới có quyền ra vạ tuyệt thông hậu kết ( ferandae sententiae) cho ai ngoan cố không chịu sửa lỗi sau khi đã được cảnh cáo nhiều lần.
Chưa hết, linh mục không được " tham mê tiền của" để chỉ nhận dâng lễ với bổng lễ ( mass stipend) cao và từ chối lễ với bổng lễ thấp, đặc biết là không nên tổ chức mừng ngày thụ phong mỗi năm, hay mỗi 10 năm, 15 năm để lấy tiền mừng của giáo dân.Đây là một gương xấu phải tránh, chứ không phải là một truyền thống tốt đẹp phải thực hành.
Một điều quan trọng nữa là linh mục không được phép biến lễ tang ( Funeral mass) thành lễ cưới hay lễ Phong Thánh ( Canonization Mass) cho ai khi giảng rằng linh hồn này chắc chắn đã lên Thiên Đàng rồi, vì đã được sức dầu và lãnh Phép lành Tòa Thánh trước khi chết., cho nên phải vui mừng, không được thương khóc và để tang như một gia đình kia có con làm linh mục đã làm ! ( tôi là một nhân chứng )
Giáo lý và bí tích của Giáo Hội chỉ qui định việc sức dầu thánh, ban của ăn đàng (Viaticum) cũng như nghi thức phó linh hồn cho ai sắp ly trần, nhưng không hề dạy là nếu ai được sức dầu và lãnh Phép lành Tòa Thánh trước khi chết thì chắc chắn đã lên Thiên Đàng. Lên Thiên Đàng hay xuống hỏa ngục, hoặc đang còn ở nơi Luyện tội thì không ai có thể biết được. Chỉ có Chúa biết mà thôi. Do đó, Giáo Hội chỉ dạy cầu nguyện cho các linh hồn đã ly trần, dù là thường dân, hay linh mục, giám mục hoặc giáo hoàng
Giáo Hội có phong thánh cho ai thì cũng phải đòi hỏi thời gian và những điều kiện cần thiết theo giáo luật, chứ chưa hề tức khắc phong thánh cho ai ngay sau khi người đó chết, dù là các Đức Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám mục…
Mặt khác, với tư cách và cương vị là thừa tác viên và là hiện thân của Chúa Kitô trong trần thế, linh mục không thể coi nhẹ cương vị của mình để dễ dãi tham gia giúp vui trong những bữa tiệc cưới, đứng lên ca hát hoặc kể truyện tếu. Nói rõ hơn, linh mục không nên ôm cây đàn, ca hát và nhảy nhót với ai vì mục đích ca tụng quê hương, đất nước hoặc gây quỹ cho cá nhân hay cơ quan, đoàn thể nào. Làm như vậy, linh mục đã quên cương vị của mình khi tự cho phép hòa mình vào những sinh hoạt có tinh chất thế tục.
Sân khấu và nơi tổ chức ca hát, nhảy nhót của người đời, nên chắc chắn không phải là nơi tụ họp, giúp vui của linh mục. Chỗ đứng và nơi trình diễn của linh mục là bàn thánh, là giảng đài ( pulpit) là Tòa giải tội và giường bệnh nhân, tức là những nơi linh mục thi hành tác vụ thánh đã được lãnh nhận từ Bí Tích Truyền Chức Thánh và năng quyền thi hành từ giám mục mình trực thuộc để phục vụ cho những lợi ích thiêng liêng của giáo dân.
Đặc biệt, linh mục cũng không nên làm các nghề của người đời như bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư v.v để quảng cáo kiếm thân chủ và kiếm tiền như những người làm các nghề chuyên môn này. Chỗ đứng và chức năng ( competence) của linh mục là rao giảng lời Chúa, dạy dỗ chân lý và thánh hóa mình và người khác qua việc cử hành các Bí Tích Thanh Tẩy, Thánh Thể, Hòa giải và sức dầu bệnh nhân, dạy giáo lý, Kinh Thánh..chứ không phải ở phòng mạch, nhà bán thuốc, văn phòng cố vấn pháp luật v .v. Đây là một khuyết điểm lớn của Tu Hội hay nhà Dòng nào cho phép tu sĩ linh mục của mình làm những ngành nghề nói trên để kiếm tiền cho nhà Dòng,Tu Hội. Chúng ta tin rằng mỗi người Chúa ban ơn gọi riêng và khả năng riêng để sống và phục vụ. Do đó, không thể vừa làm linh mục vừa làm ca sĩ hay bác sĩ y khoa, hay luật sư ( attorney) được.Tuy nhiên, cũng có trường hợp một số bác sĩ, luật sư, kỹ sư hay giáo sư đang hành nghề thì cảm thấy ơn goi đi tu làm linh mục. Nhưng sau khi trở thành linh mục, thì thôi không hành nghề chuyên môn kia nữa để dành tâm trí và thì giờ cho Sứ vụ linh mục ( priestly ministries), một “ ngành nghề” không dính dáng gì đến việc bon chen để kiếm tiền, làm giầu như các ngành nghề khác trong xã hội.
Lại nữa, linh mục không thể đi làm quảng cáo cho một cơ sở thương mại nào, như một linh mục kia đã nằm dài trên ghế để quảng cáo cho một loại ghế xoa bóp trên truyền hình. Đây rõ ràng là một gương xấu, hoàn toàn không phù hợp với là chức năng và tư cách của linh mục, thừa tác viên thay mặt và nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi) để dâng lại hy tế thập giá của Chúa trên bàn thờ, và cử hành các bí tích khác cũng như rao giảng lời Chúa và làm nhân chứng cho Chúa qua tác vụ và đời sống của mình trước mặt người đời.
Tóm lại, là hiện thân của Chúa Kitô giữa trần gian, đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội khắp nơi ngày một thêm “tục hóa” vô lương tâm và vô luân hiện nay, mọi linh mục đều được mong đợi sống sao cho người đời, cách riêng cho người tín hữu dễ nhận ra Chúa Kitô, Đấng đến và trở nên Con Người không phải để đồng hóa với người phàm trong mọi chiều kích thế tục mà trở nên Con Người để cứu chuộc và thần linh hóa ( divinize) loài người hầu cho phép con người được sống hạnh phúc và “ thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” này, như Thánh Phêrô đã dạy. ( 2 Pr 1:4). Chúa nói : " ai có tai nghe thì nghe." ( Mt 13: 43; Mc 7 : 46; Lc 8: 8)