Vũ Văn An
Tính bất khả tiêu của hôn nhân: một tín lý dứt khoát
RG cho rằng lý do chính để tin các cuộc hôn nhân giao ước không thể bị tiêu hủy ngoại trừ sự chết là lời Chúa Giêsu tuyên bố rằng những ai ly dị và tái hôn là phạm tội ngoại tình. Các tác giả nhất lãm nhất trí rằng Chúa Giêsu có chủ trương đó, và sự chính xác lịch sử trong các trình thuật của các ngài đã được khoa chú giải gần đây nhìn nhận (125). Các thực hành của Giáo Hội trong việc tiêu hủy một số cuộc hôn nhân chưa hoàn hợp (126) và chấp thuận cho tiêu hủy một số cuộc hôn nhân không có tính giao ước (127) là nhất quán với giáo huấn của Chúa Giêsu, và ta sẽ không thể hợp lý khi cho câu “porneia” của Thánh Mátthêu như dẫn khởi một luật trừ thực sự (128). Do đó, chủ trương rằng có thể tiêu hủy một cuộc hôn nhân đã thành hiệu và hoàn hợp bằng bất cứ điều gì ngoại trừ sự chết là ngụ ý cho rằng giáo huấn của Chúa Giêsu không đúng sự thật, rằng lời Thiên Chúa dẫn ta tới sai lầm.
Lối giải thích trên đây về một số đoạn Thánh Kinh liên hệ đã được thánh truyền, tức giáo huấn của Công Đồng Trent và giáo huấn cũng như thực hành của Giáo Hội Công Giáo từ CĐ Trent trở về sau, xác nhận. Thánh truyền này biểu lộ niềm tin của Giáo Hội vào các chân lý được Chúa Giêsu mạc khải.
Giáo huấn dứt khoát của CĐ Trent
Sắc lệnh của Công Đồng Trent về Bí Tích Hôn Nhân ngày 11 tháng 11 năm 1563 có hai phần: lời nói đầu có tính học lý và 12 qui tắc (canons). Lời nói đầu như sau: Được Chúa Thánh Thần linh hứng, thủy tổ nhân loại đã công bố hôn nhân như một sợi dây vĩnh viễn và bất khả tiêu khi ngài nói: cuối cùng, đây mới là xương bởi xương tôi, và thịt bởi thịt tôi… Cho nên, người đàn ông sẽ rời cha mẹ mình và dính kết với vợ, và cả hai sẽ nên một thân xác.
Chúa Kitô, Chúa chúng ta, dạy một cách công khai hơn rằng hai người đơn lẻ phải phối hợp và dính kết với nhau bằng sợi dây trên khi, nhân lúc nhắc tới các lời vừa được trích dẫn như là lời của Thiên Chúa, Người cho hay, Do đó, họ không còn là hai mà chỉ còn là một thân xác, và liền đó Người tiếp tục xác nhận bản chất lâu bền của cùng một sợi dây mà trước đây chỉ được một mình Adong tuyên bố, bằng những lời sau đây: Do đó, sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly.
Chính Chúa Kitô, Đấng thiết lập và là Đấng kiện toàn các bí tích cực thánh, qua sự thống khổ của Người, đã ban cho chúng ta ơn thánh để hoàn hảo hóa tình yêu tự nhiên, củng cố sự hợp nhất bất khả phân ly [indissolubilem unitatem confirmaret] và thánh hóa các người phối ngẫu. Thánh Phaolô nói rõ điều này khi cho rằng các người chồng phải yêu vợ mình như Chúa Kitô yêu Giáo Hội và hiến mình vì Giáo Hội, và sau đó nói thêm ngay rằng: Đây là một mầu nhiệm lớn lao, tôi muốn nói về Chúa Kitô và Giáo Hội.
“Vì ơn thánh nhờ Chúa Kitô mà nhận được đã nâng hôn nhân thời Tin Mừng lên trên sự phối hợp của luật cũ, nên các giáo phụ và công đồng thánh thiện và trọn bộ truyền thống phổ quát của Giáo Hội luôn dạy rằng nó đáng được kể vào số các bí tích của luật mới. Chống lại giáo huấn này, người dữ và hoang đàng của thời nay không những nghĩ xấu về bí tích đáng kính này mà, ngụy cậy vào tin mừng, nhân khi lén đưa vào đó sự dung túng xác thịt, họ còn nói và viết khá nhiều điều xa lạ đối với tâm tư của Giáo Hội Công Giáo và đối với phong tục tập quán [probata consuetudine] từ thời các Tông Đồ, gây nhiều thiệt hại cho các tín hữu Kitô Giáo. Để chống lại các ý kiến thiếu suy nghĩ của họ, công đồng thánh thiện và phổ quát này đã quyết định nhổ tận gốc các sai lạc và lạc giáo rành rành hơn của những người có tư tưởng ly giáo này, để sự tiêm nhiễm đầy tác hại của họ khỏi lây lan, và ra các lệnh tuyệt thông chống lại những người lạc giáo này và các sai lầm của họ như sau” (129).
Chống lại các mưu toan nhằm lấy Thánh Kinh chứng tỏ rằng lưỡng hôn và ly dị là có thể chấp nhận được về luân lý và hôn nhân Kitô Giáo là phàm tục chứ không thánh thiêng, Công Đồng Trent đã rút tỉa các giáo huấn Công Giáo về hôn nhân từ Thánh Kinh và thánh truyền.
Với sự chính xác chặt chẽ, công đồng đưa ra ba điểm trong hai đoạn đầu tiên. Thứ nhất, công đồng giải thích lời cảm thán của Adong “Cuối cùng, đây mới là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” như là lời quả quyết được Chúa Thánh Thầnh linh hứng rằng hôn nhân là sợi dây vĩnh viễn và bất khả tiêu. Thứ hai, công đồng chỉ rõ rằng sau khi trích dẫn chính lời Đấng Tạo Hóa nói (“vì thế, người đàn ông sẽ rời cha mẹ mình và dính kết với vợ, và cả hai trở nên một thân xác”), Chúa Giêsu dạy rằng hôn nhân là đơn hôn khi Người quả quyết: “vì thế, họ không còn là hai mà chỉ là một thân xác”. Thứ ba, công đồng giải thích câu kết luận “do đó, sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không ai được phân ly” như là lời Chúa Kitô, Chúa chúng ta, quả quyết “bản chất lâu dài” của sợi dây hôn phối, nghĩa là tính bất khả tiêu của sợi dây này, là bản chất trước đó, chỉ duy nhất có Adong xác quyết. Sau đó, Trent tiếp tục dạy rằng Chúa Kitô đã ban ơn thánh để, cùng với nhiều điều khác, củng cố tính nên một bất khả tiêu của lứa đôi. Khi dạy rằng ơn thánh của Chúa Kitô củng cố sự hợp nhất bất khả tiêu, công đồng không ngụ ý cho rằng tính bất khả tiêu của hôn nhân tùy thuộc tính bí tích của nó. Đúng hơn, vì chỉ những gì vốn đã hiện hữu mới có thể được củng cố, nên giáo huấn này ngụ ý cho rằng ơn thánh tăng tiến tính nên một bất khả tiêu vốn là của hôn nhân như Thiên Chúa đã thiết lập nên. Công đồng dạy rằng sự thật về ơn thánh của Chúa Kitô và các hoa trái của nó đã được Thánh Phaolô gợi ý (xem Thư Eph. 5:32, 35). Liền đó, công đồng quả quyết rằng, vì ơn thánh của Chúa Kitô đã nâng bí tích của Kitô hữu lên trên hôn nhân của giao ước cũ, nên “các thánh giáo phụ và các công đồng của ta và toàn thể truyền thống của Giáo Hội luôn dạy rằng nó đáng được kể vào số các bí tích của luật mới” (130). Như thế, trong khi trực tiếp rút tỉa tính bất khả tiêu của hôn nhân từ Sách Thánh ra, công đồng Trent quả quyết tính bí tích của hôn nhân như là một kết luận mà theo truyền thống vốn được rút ra từ ơn phúc ơn thánh Chúa Kitô dành cho hôn nhân.
Cuối cùng, Trent giải thích rằng các qui định sau đây có mục đích đối chất các tuyên bố và soạn tác “xa lạ đối với tâm trí Giáo Hội Công Giáo” và để bênh vực giáo huấn của Giáo Hội, như vừa tóm tắt, chống lại “các sai lạc và lạc giáo rành rành hơn” của thời ấy (131). Do đó, các qui định, trong đó có ba qui định trực tiếp liên quan tới tính bất khả tiêu, phải được hiểu dưới ánh sáng giáo huấn của lời nói đầu.
Qui định một là “nếu ai nói rằng hôn nhân theo nghĩa chân thực và nghĩa hẹp không phải là một trong bẩy bí tích của thời Tin Mừng, do Chúa Kitô thiết lập, mà chỉ là một sáng chế của con người trong Giáo Hội, và nó không ban ơn thánh, thì người đó hãy bị tuyệt thông” (132). Tuy không dùng hạn từ giao ước, qui định này vẫn xác định chân lý cho rằng hôn nhân Kitô Giáo không phải chỉ là một việc phàm tục. Trong lời nói đầu có tính học lý, Trent dạy rằng ơn thánh của Chúa Kitô củng cố tính bất khả tiêu của hôn nhân; cùng với qui định một, khi xác định rằng hôn nhân là một bí tích thông ban ơn thánh, công đồng loại bỏ một cách dứt khoát ý niệm cho rằng sự cứng lòng của nhân loại sa ngã là điều không thể tránh được đến nỗi Chúa Giêsu không bao giờ mong chờ ngay cả các Kitô Hữu sống đúng tính bất khả tiêu do Thiên Chúa ban mà Người đã quả quyết (133). Chúa Giêsu không những dạy những gì Thiên Chúa có ý định muốn cho hôn nhân trở thành, mà, khi ban ơn thánh cho những người đàn ông và đàn bà sa ngã, và khi biến hôn nhân thành một bí tích, Người còn giúp mọi người phối ngẫu Kitô Giáo vượt thắng được sự cứng lòng và tiếp tục trung thành cho tới chết.
Qui định năm nói như thế này: “nếu người nào đó nói rằng dây hôn phối có thể bị tiêu hủy vì lạc giáo, hay khó sống chung, hay vì sự cố tình bỏ trốn của một trong hai người phối ngẫu, thì họ hãy bị tuyệt thông” (134). Qui định này xuất hiện lần đầu vào ngày 7 tháng 8, năm 1563, chỉ ba tháng trước khi Trent hoàn tất sắc lệnh của mình về hôn nhân (135). Nó phát sinh từ một đề nghị vào ngày 24 tháng 7 của Đức HY thành Lorraine rằng nên có một qui định lên án các sai lạc được ngài gán cho Calvin: theo đó một cuộc hôn nhân có thể bị tiêu hủy vì khác đạo (disparity of cult), hay sống không hòa thuận, hay vắng mặt lâu (136). Vào ngày hôm sau, Đức TGM Thành Sens đề nghị một công thức bắt đầu như thế này: “nếu người nào đó nói rằng việc cố ý vắng mặt của một trong hai người phối ngẫu” (137). Trong hai tuần kế tiếp, đề nghị này được sự ủng hộ của rất đông nghị phụ (138). Thành thử, qui định năm được cho vào dự thảo mới gồm các qui định được đề xuất vào ngày 7 tháng 8, và đã được thông qua nguyên vẹn trong Sắc Lệnh của Trent về Hôn Nhân (139).
Mặc dù không đưa ra một tuyên bố tổng quát rằng hôn nhân là điều bất khả tiêu, nhưng công đồng Trent, trong lời nói đầu có tính học lý của mình, có quả quyết cả hai điều rằng Chúa Thánh Thần linh hứng cho Adong tuyên bố rằng hôn nhân là sợi dây bất khả tiêu và rằng Chúa Giêsu đã tái xác định tính bền chặt của sợi dây mà Adong đã tuyên bố. Như thế, Trent đã rút ra tính bất khả tiêu của hôn nhân từ Thánh Kinh và đã đưa ra, không hẳn minh nhiên cho bằng mặc nhiên, câu tuyên bố tổng quát kia rằng hôn nhân bất khả tiêu là một chân lý do Thiên Chúa mạc khải. Khi nhanh chóng xác định sự bất khả tiêu hủy hôn nhân dựa trên cơ sở được gán cho Calvin, các nghị phụ công đồng Trent đã biểu lộ sự quyết tâm bênh vực tính bất khả tiêu đến nỗi ta có lý khi tin rằng các ngài sẽ sẵn sàng ấn định một tuyên bố tổng quát rằng hôn nhân là bất khả tiêu nếu có Nhà Cải Cách nào dám bác bỏ nó.
Kém trực tiếp hơn qui định năm, qui định bẩy bênh vực tính không sai lầm trong lối giải thích của Giáo Hội Công Giáo về giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mátthêu chống lại những ai nghĩ rằng câu “porneia” tạo nên một luật trừ thực sự: “nếu người nào đó nói rằng Giáo Hội sai lầm vì đã dạy và vẫn còn dạy rằng phù hợp với học lý Tin Mừng và tông truyền, dây hôn phối không thể bị tiêu hủy vì một trong hai người phối ngẫu ngoại tình, và cả hai người, ngay cả bên vô tội không tạo ra bất cứ nguyên cớ gì cho sự bất trung, có thể đính ước một cuộc hôn nhân khác khi người kia còn sống; và rằng người chồng nào ly dị người vợ ngoại tình rồi tái hôn và người vợ nào ly dị người chồng ngoại tình rồi tái hôn, cả hai đều phạm tội ngoại tình, thì người đó hãy bị tuyệt thông” (140).
Khi nói rằng “vì đã dạy và vẫn còn dạy rằng phù hợp với học lý Tin Mừng và tông truyền”, công đồng Trent muốn nói tới chính các tái xác quyết của mình về tính bất khả tiêu của hôn nhân, rút từ Thánh Kinh trong lời nói đầu có tính học lý. Khi khẳng định rằng mưu toan tái hôn của một trong hai người phối ngẫu kết cục ở tội ngoại tình, công đồng Trent muốn làm sáng tỏ điều này: sự bất khả trong việc tiêu hủy các cuộc phối hợp hôn nhân do Thiên Chúa đem lại, dù vì ngoại tình, cũng vẫn độc lập đối với cả lỗi lầm và phái tính.
Bản thảo của qui định bẩy được đem ra xem sét vào ngày 11 tháng 8 năm 1563, 3 tháng trước khi Trent hoàn tất sắc lệnh của mình về hôn nhân, đáng lẽ ra đã trực tiếp xác định việc không thể tiêu hủy các cuộc hôn nhân trên cơ sở ngoại tình, như qui định năm đã làm dựa trên các cơ sở khác, hơn là chỉ bênh vực tính không sai lầm của giáo huấn Giáo Hội, như qui định bẩy sau cùng đã làm (141). Nhưng các lãnh thổ đông Địa Trung Hải do Venice chiếm giữ nơi các Kitô hữu Hy Lạp, là những người chấp nhận việc tái hôn sau khi ly dị người vợ ngoại tình, sống dưới sự lãnh đạo của các giáo phẩm được Rôma thừa nhận. Các nhà ngoại giao của Venice cho hay: vẫn có hy vọng đem những Kitô hữu trên gần lại Rôma hơn, dù việc ra vạ tuyệt thông cho chủ trương của họ về ly dị có thể khiến họ hoàn toàn thoát ly khỏi Tòa Thánh. Bởi thế, người Venice thúc giục công đồng chấp nhận phương thức gián tiếp được chính họ đề nghị trong một dự thảo (142).
Người thứ nhất lên tiếng về đề xuất của Venice cho rằng theo Trent, Giáo Hội không sai lầm trong giáo huấn của mình, là Đức HY thành Lorraine, người ủng hộ đề xuất nhưng đề nghị nên thêm điều này “juxta Scripturas” (phù hợp với Thánh Kinh) (143). Dù muốn thỏa mãn nhu cầu mà người Venice đã nêu ra, ngài cũng thẳng thắn muốn có một xác định để người ta thấy rằng giáo huấn của qui định về tính bất khả tiêu là phù hợp với Thánh Kinh, và phần lớn các nghị phụ lên tiếng về đề xuất này đều nhất trí (144).
Dự thảo kế tiếp của Sắc Lệnh (ngày 5 tháng Chín, 1563) chấp nhận phương thức gián tiếp của Venice trong qui định bẩy và thêm “iuxta evangelicam et apostolicam doctrinam” (phù hợp với học lý Tin Mừng và tông truyền) [145]. Cũng là lần đầu tiên, dự thảo mới đề nghị điều sẽ trở thành ba đoạn rưỡi đầu tiên của lời nói đầu có tính học lý của Sắc Lệnh, trong đó, công đồng rút từ Thánh Kinh và thánh truyền điều Giáo Hội đã và đang dạy (146). Đức HY thành Lorraine một lần nữa lại là người đầu tiên lên tiếng về dự thảo mới. Ngài hoan nghênh lời nói đầu có tính học lý, còn về qui định bẩy, ngài đề nghị rằng “matrimonium” (hôn phối) được thay thế bằng “matrimonii vinculum” (dây hôn phối) để qui định, ba mặt một lời nói, rõ tính bất khả tiêu của dây hôn phối [147]. Phần lớn các nghị phụ đã nhất trí, như kết quả sau cùng cho thấy rõ.
Từ lịch sử nói trên, RG cho rằng ta có thể có kết luận sau đây. Giống các qui định khác, qui định bẩy bênh vực giáo huấn của Giáo Hội, được tóm tắt trong lờinói đầu, chống lại một trong các lạc giáo thời ấy. Tuy nhiên, không như các qui định khác, qui định bẩy tự tham chiếu chính mình (self-referential): đây là một điển hình giáo huấn cho rằng phù hợp với học lý Tin Mừng và tông truyền, qui định tự khẳng định một cách dứt khoát mình không sai lầm.
HC và Ủy Ban Thần Học Quốc Tế (ITC) về công đồng Trent
HC tóm lược giáo huấn của công đồng Trent như sau: “công đồng quả quyết rằng Adong (trong St 2:23-24) tuyên bố hôn nhân là sợi dây (nexum) vĩnh viễn và bất khả tiêu. Công đồng cực lực không cho rằng: một người phối ngẫu có thể tiêu hủy sợi dây hôn phối ‘dựa trên cơ sở lạc giáo, khó sống chung, hay tiếp tục vắng mặt’ hay nó bị tiêu hủy bởi sự ngoại tình của một trong hai người phối ngẫu (ở đây, xin hết sức thận trọng để đừng kết án thực hành của các Giáo Hội Đông Phương vốn cho phép tái hôn trong trường hợp ngoại tình)” (148).
Theo RG, HC vừa không hiểu ý nghĩa của lời nói đầu có tính học lý của Sắc Lệnh vừa không bàn tới các vấn đề do phần này đặt ra trong dự án của họ. Thực vậy, ở đây, họ chỉ xem sét câu đầu tiên của lời nói đầu. Việc họ diễn giải lời tuyên bố của Adong, trong câu ấy, về tính bất khả tiêu của hôn nhân đã bỏ sót điều này: ngài “được Chúa Thánh Thần linh hứng”.
Khi tóm tắt các qui định, HC theo chân Tanner trong hai lầm lẫn. Họ thêm “bởi một người phối ngẫu” ở qui định năm, thay đổi “tiêu hủy” thay vì “vắng mặt”; như thế, ngược với ý nghĩa đích thực của qui định, xem ra nó chỉ phạt tuyệt thông những ai nói rằng các người phối ngẫu có thể tiêu hủy cuộc hôn nhân của họ (149). Lầm lẫn khác nữa là: khi tóm lược qui định bẩy, họ dịch “propter adulterium” là “bởi ngoại tình” thay vì đúng hơn phải dịch là “trên cơ sở ngoại tình”, như thế là làm cho qui định trở thành mơ hồ, đến độ có thể hiểu như chỉ phạt tuyệt thông những ai nghĩ rằng hôn nhân được tiêu hủy bởi chính hành vi ngoại tình [150]. Với hai lối dịch sai lầm này, xem ra các qui định của Trent đã cho phép các cuộc hôn nhân “đã tan vỡ hoàn toàn” được tiêu hủy, như HC đề nghị 151].
Do đó, HC không xem sét cả các trở ngại chống lại đề nghị của họ đối với việc duyệt xét được qui định năm của sắc lệnh Trent về hôn nhân trình bày. Nhưng họ có cố gắng loại bỏ trở ngại được qui định bẩy trình bày:
“Tuyên bố năm 1978 của Ủy Ban Thần HỌc Quốc Tế (ITC) về hôn nhân bao gồm một cảnh giác (caveat) quan trọng đối với lời tuyên bố của Công Đồng Trent ở qui định bẩy về hôn nhân. Tại Trent, các giám mục chú tâm vào việc luận bác giáo huấn của Các Nhà Cải Cách, nhất là của Luther, trong việc ông này bác bỏ thẩm quyền về hôn nhân của Giáo Hội. Đó là chủ đề đích thực của giáo huấn và ITC chấp nhận cách hiểu hẹp như thế về mục tiêu của Trent. ‘Như thế người ta không thể nói rằng công đồng có ý định long trọng xác định tính bất khả tiêu của hôn nhân như là một chân lý đức tin’. Cũng không có lý do nào để tin rằng Trent coi giáo huấn này như một học lý dứt khoát” (152).
Trong tài liệu của ITC, đoạn được HC trích dẫn là câu kết luận rút ra từ tiền đề này: “Vì các nghi ngờ trong lịch sử (các ý kiến của Ambrosiaster, Catharinus, và Cajetan) và vì một vài lý do ít nhiều có tính đại kết, nên Công Đồng đã tự giới hạn vào việc tuyên bố vạ tuyệt thông cho những ai bác bỏ thẩm quyền của Giáo Hội về vấn đề này” (153).
Nhưng theo RG, tiền đề của ITC sai. Giữa ngày 20 tháng Bẩy và 11 tháng Tám năm 1563, ngày người Venice yêu cầu Công Đồng theo phương thức gián tiếp, các nghị phụ đã được nghe nhiều luận chứng chống lại việc tuyệt thông những ai nói rằng hôn nhân có thể bị tiêu hủy trên cơ sở ngoại tình, dựa vào Ambrosiaster (một công trình lúc ấy bị lầm lẫn gán cho Thánh Ambrose), các nhậy cảm của Kitô hữu Chính Thống Hy Lạp vân vân [154]. Ngày 26 tháng Bẩy, Đức Giám Mục thành Segovia cho rằng cần có một qui định kết án những ai nói rằng Giáo Hội đã sai lầm (phương thức gián tiếp): “Nếu người nào nói rằng Giáo Hội đã sai lầm khi cho rằng dây hôn phối không bị tiêu hủy bởi sự ngoại tình, người ấy hãy bị tuyệt thông” [155].
Ấy thế nhưng, đa số đã thẳng thừng bác bỏ mọi luận chứng này, vì dự thảo ngày 7 tháng Tám vẫn trực tiếp phạt tuyệt thông những ai nói rằng hôn nhân có thể bị tiêu hủy trên cơ sở ngoại tình. Chỉ có lời kêu gọi của Venice trên cơ sở mục vụ là chiếm được đa số ủng hộ phương thức gián tiếp (156). Hơn nữa, theo RG, kết luận của ITC cũng sai. Dù Trent không có ý định long trọng xác định tính bất khả tiêu của hôn nhân nói chung như một chân lý của đức tin, nhưng với qui định năm, công đồng quả có long trọng xác định nó trên mọi cơ sở quen thuộc ngoại trừ ngoại tình.
______________________________________________________________________________________________________________________
Ghi chú
[125] Xem các số 71, 115–16, 121 ở trên.
[126] Xem bản văn kèm các số 89–100.
[128] Xem bản văn kèm các số 117–24.
[129] Tanner 2:753–54. Một “tập tục được chấp thuận từ thời các tông đồ” là thực hành đã thành nếp thuộc truyền thống tông đồ nói về mạc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu.
[130] Tanner 2:754. Trent không diễn dịch tính bí tích từ thư Êphêsô, như các độc giả bất cẩn thường giả định.
[131] Ibid.
[132] Ibid.
[133] Một số người Công Giáo có thể chấp nhận rằng theo Chúa Giêsu, tái hôn sau ly dị là ngoại tình và Giáo Hội cũng dạy cùng một điều như thế, nhưng họ lại chủ trương rằng giáo huấn ấy chỉ là một lý tưởng bất khả vì, theo họ, những con người sa ngã không thể sống cái lý tưởng quá khó khăn như thế. Những người Công Giáo này chắc đồng ý với HC rằng cả trong trường hợp hôn nhân thành hiệu và hoàn hợp, Giáo Hội nên chấp nhận cho tái hôn sau khi ly dị. Để bênh vực cho lập trường nghịch lý đó, các người Công Giáo này chắc chắn sẽ chấp nhận phương thức vụ luật pháp giống phương thức của Luz: “Chẳng may, điều hết sức cái nhiên là Chúa Giêsu cũng không chống lại việc cố gắng ‘đặt qui định cho các vấn đề của con tim bằng phương tiện luật lệ’ nhưng Người nhất định đã thiết lập ra một nguyên tắc nền tảng” (Luz, Matthew 8–20, 494–95). Nếu các người Công Giáo cho rằng “không ai có thể tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, kể cả những người đã được công chính hóa và vững ổn trong ơn thánh (Council of Trent, Decree on Justification c. 18; Tanner 2:680), thì họ hẳn không nhận ra rằng cả những lời khó nghe của Chúa Giêsu cũng là tin mừng mà họ có thể sống theo. Nại tới chủ nghĩa duy luật, họ sẽ hợp lý hóa việc gạt ra một bên các giáo huấn khó khăn, không những liên quan tới ly dị và tái hôn, nhưng liên quan cả tới thủ dâm, ngừa thai, kê gian (sodomy), phá thai, và vân vân.
[134] Josef Neuner and Jacques Dupuis, The Christian Faith in the Doctrinal Documents of the Catholic Church, 7th ed., rev. Jacques Dupuis (từ đây viết tắt là Neuner-Dupuis) (New York: Alba House, 2001) no. 1812 (DS 1805).
[135] Concilium Tridentinum: Diariorum, actorum, epistularum, tractatuum,13 vols., 2nd ed., ed. Societas Goerresiana (Freiburg im Breisgau: Herder, 1965) 9:682. Từ đây viết tắt là Trent.
[136] Xem Trent 9:642. Calvin chỉ chấp thuận ly dị do thẩm quyền dân sự: “Calvin cũng tha thiết trong việc bảo vệ chống lại thực hành tiêu hôn tư riêng trước đây của giáo luật y như chống lại việc dung túng các cuộc hôn nhân bí mật của giáo luật truyền thống” (John Witte Jr. and Robert M. Kingdon, Sex, Marriage, and Family in John Calvin’s Geneva, vol. 1, Courtship, Engagement, and Marriage [Grand Rapids, Mich.:Eerdmans, 2005] 46; xem 45–48).
[137] Trent 9:652.
[138] Xem Trent 9:682 số 3.
[139] Xem Trent 9:682; Tanner 2:754.
[140] Neuner-Depuis số 1814 (DS 1807).
[141] Xem Trent 9:682.
[142] Xem Trent 9:686. 400
[143] Xem Trent 9:687. Giữa ngày 11 và ngày 23 tháng Tám, một nhóm nghị phụ, trong đó có Đức HY thành Lorraine, đề nghị một bản viết lại hoàn toàn theo phương thức gián tiếp (xem 9:742); trong bản này, kiểu nói của người Venice “non debere . . . contrahere ” đổi thành “non posse. . . contrahere, ” để minh xác rằng tái hôn sau khi ly dị là điều không thể xẩy ra, chứ không phải chỉ sai mà thôi.
[144] Xem Trent 9:687–743; tổng kết số phiếu: Trent 9:742–43.
[145] Xem Trent 9:760. Các nhà soạn dự thảo có lẽ đã rút câu “iuxta evangelicam et apostolicam doctrinam” từ một câu tương tự “secundum evangelicam et apostolicam disciplinam” trong điều hiện được coi là qui định 8 của Công Đồng Carthage lần thứ 11 (June 13, 407) (xem Trent 6:410, 9:649; và Crouzel, L’Eglise primitive 312–13). Cả secundum lẫn iuxta đều có nghĩa “phù hợp với”; nhưng nghĩa "gần gũi xát cạnh" trước nhất của juxta (xem Lewis and Short, 1021) cho thấy sự hòa hợp gần gũi giữa giáo huấn của Giáo Hội và các nguồn Thánh Kinh của nó. Cũng thế, cả disciplinam lẫn doctrinam đều có nghĩa “giáo huấn” nhưng chữ sau ít bị hiểu lầm chỉ như một thói quen hay một qui định dễ thay đổi về tác phong (xem Lewis and Short 587, 605). Dự thảo ngày 5 tháng Chín bỏ những chữ “et docet” (“và hiện còn giảng dậy”) mà người Venice vốn lồng vào.
[146] Xem Trent 9:761; dự thảo lúc đầu của lời nói đầu có tính học lý này đã được đưa ra, “nếu các nghị phụ chấp thuận nó mà không tranh luận”, là để thay thế lời nói đầu ngắn ngủ dẫn tới các qui định. Dự thảo khởi đầu với câu “Matrimonii perpetuum inviolabilemque nexum” (sợi dây vĩnh viễn và bất khả vi phạm của hôn nhân). Câu này, trong sắc lệnh sau cùng, đã trở thành “Matrimonii perpetuum indissolubilemque nexum” (sợi dây vĩnh viễn và bất khả tiêu của hôn nhân
[147] Xem Trent 9:779; Đức HY thành Lorraine cũng gợi ý rằng “docuit ” nên đọc trở lại là "docuit et docet.” Cũng nên xem Trent 9:742, ở đây ngài và nhiều vị khác được tường trình là ủng hộ câu “matrimonii vinculum” (dây hôn phối) vốn không có trong dự thảo cho tới tận 7 tháng Tám mới xuất hiện trong qui định 5 mới (xem các số 134-139 trên đây và bản văn đính kèm).
[148] HC 458. Ở chỗ khác, HC quả quyết rằng tại Trent “các giám mục tuyên bố ‘rằng ơn thánh của Chúa Kitô có sẵn đó để biến hôn nhân thành bất khả tiêu một cách bất khả tiêu’ và ngầm ngụ ý rằng các cuộc hôn nhân đã được biến thành bất khả tiêu đều là bí tích” (HC 495–96; trích dẫn từ Theodore Mackin, “Ephesians 5:21–33 and Radical Indissolubility,” trong Marriage Studies 3:1–45, tại số 6). Lời quả quyết này giải thích sai giáo huấn của lời nói đầu về việc ơn thánh của Chúa Giêsu, tính bất khả tiêu hôn nhân và tính bí tích liên hệ với nhau ra sao.
[149] Phiên dịch qui định 5 như HC làm không bị bản La Tinh ngăn cản: “Si quis dixerit, propter haeresim, aut molestam cohabitationem, aut affectatam absentiam a coniuge dissolvi posse matrimonii vinculum: anathema sit” (nếu người nào nói rằng vì lạc giáo, hoặc sống chung khó khăn, hoặc vắng mặt lâu dài, một người phối ngẫu có thể tiêu hủy sợi dây hôn phối, thì họ hãy bị tuyệt thông). Tuy nhiên, 3 xem sét sau đây ngăn cản việc phiên dịch như thế. (1) Nó không phù hợp với sự quan tâm từng sản sinh ra qui định 5, tức là, các sai lạc của Calvin , người vốn bảo vệ chống lại cuộc ly dị do chính hai người phối ngẫu thực hiện (xem số 136 trên đây). (2) Nó bị chính lịch sử biên soạn qui định 5 loại bỏ. Như đã giải thích trên đây, ngày sau khi Đức HY thành Lorraine đề nghị phải có một qui định chống lại các sai lầm của Calvin, Đức TGM thành Sens đề nghị một công thức bao gồm câu “affectatam utriusque coniugis absentiam” (sự vắng mặt lâu dài của một trong hai người phối ngẫu) (Trent 9:652). Với cách hiểu đó, nghĩa là: không tiêu hủy do một người phối ngẫu mà tiêu hủy trên cơ sở bỏ trốn của một người phối ngẫu, đề nghị này sẵn sàng được chấp thuận. (3) Nó dẫn đến việc dịch chữ affectatam thành “tiếp tục” (lâu dài) dù affectatam có nghĩa là cố ý, chứ không hẳn “tiếp tục” hay bất cứ tĩnh từ nào giống như thế.
[150] Ba xem sét sau đây cho thấy: việc dịch đúng chữ “propter” trong qui định 7 không phải là “bởi” mà là “trên cơ sở” (hay “bởi vì”, như trong lối dịch của Neuner-Dupuis được RG sử dụng). (1) Tanner và chính HC dịch “propter ” trong qui định năm là “trên cơ sở” (Tanner 2:754); dịch propter là “bởi” trong qui định năm “propter haeresim . . . a coniuge dissolvi posse” (bởi lạc giáo… người phối ngẫu có thể tiêu hủy) có thể đem tới câu vô lý “có thể bị sự lạc giáo của một người phối ngẫu tiêu hủy” trong Tanner. (2) Per fornicationem, kiểu nói có thể đọc là “bởi việc ngoại tình” xuất hiện năm 1547 trong một văn kiện quan trọng (xem ghi chú số 162 dưới đây), và đáng lý ra công đồng đã sử dụng kiểu nói mơ hồ này nếu nó muốn để ngỏ gúp qui định này có thể đọc là “bởi việc ngoại tình”. (3) Một dự thảo qui định có các chữ “propter adulterium” đã được trình cho các nghị phụ vào ngày 20 tháng Bẩy năm 1563 (xem Trent 9:640); trong cuộc tranh luận sau đó, Đức GM thành Segovia, vào ngày 26 tháng Bẩy, đã đề nghị một kiểu nói khác là “non dissolvi . . . per fornicationem” với nghĩa rõ ràng rằng “không bị tiêu hủy … bởi việc ngoại tình” (xem bên dưới, ghi chú số 155 và bản văn đính kèm). Đề nghị này không được tiếp nhận bao nhiêu; dự thảo tiếp theo của qui định 7 vào ngày 7 tháng Tám vẫn có hai chữ propter adulterium (xem Trent 9:682), như là bản cuối cùng vào ngày 11 tháng Mười Một (xem Trent 9:967; Tanner 2:754).
[151] HC cho rằng Giáo Hội huấn quyền đã dẫn khởi và cũng có thể thay đổi giáo huấn dạy rằng hôn nhân là bất khả tiêu (xem 478 số 79). Họ nói tới “dây ba sợi”, tức luân lý, xã hội, và tôn giáo, và nói rằng chỉ các cặp vợ chồng mới có thể phá vỡ dây luân lý, trong khi chỉ có nhà nước mới giải thoát họ khỏi dây xã hội (xem 487 số 105). Khi gợi ý rằng đặc ân Thánh Phaolô có thể được nới rộng, HC muốn cho thấy: Giáo Hội có thể chính thức chấp nhận việc tiêu hủy hôn nhân sau khi ly dị ngoài dân sự (Xem HC 469 số 51).
[152] HC 462–63; trích từ ITC, “Propositions on the Doctrine of Christian Marriage,” trong International Theological Commission, Texts and Documents: 1969–1985, ed. Michael Sharkey (San Francisco: Ignatius, 1989) 163–83, tại tr. 171. Từ đây, RG sẽ gọi tài liệu này là “ITC.”
[153] ITC 171.
[154] Muốn có bản tóm lược, xin xem Trent 9:680; cũng nên xem Joyce, Christian Marriage 395–96.
[155] Trent 9:657.
[156] Muốn có bản tóm lược phản ứng của các nghị phụ công đồng đối với đề nghị của người Venice, xin xem Trent 9:742–43. Điều xem ra rõ ràng là việc thêm câu “iuxta evangelicam et apostolicam doctrinam” và lời nói đầu có tính học lý đã thuyết phục được đa số những ai trước đây vẫn nhấn mạnh tới chủ trương cho rằng công đồng chấp nhận phương thức gián tiếp mà không hy sinh sự thật về bất khả tiêu.