Suy Niệm:
Tuần lễ trước, Chúa đã dạy chúng ta phải đi qua cửa hẹp mà vào Nước Trời. Và tác giả thư Hípri đã giúp chúng ta nhận thấy các thử thách và khó khăn xảy đến cho người tín hữu đang mở ra trước mắt họ con đường hẹp mời họ đi vào. Nhưng đó chỉ là một cách áp dụng, một khía cạnh của con đường hẹp.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một khía cạnh khác và một cách áp dụng mới. Chúa dạy chúng ta phải khiêm nhường. Thoạt nghe chúng ta có thể nghĩ đây là một giáo huấn đơn sơ; nhưng đọc kỹ các bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sẽ thấy đó là bài học rất sâu xa. Chúa dùng lời nói và kiểu nói thông thường của loài người, nhưng lại muốn gợi đến những mầu nhiệm thâm thúy. Chúng ta hãy xin ơn soi sáng để hiểu ra ý Chúa.
1. Hãy Ở Khiêm Hạ
Bài sách Huấn ca cho chúng ta những lời khuyên thực tế. Tác giả là Ben Sira, và vì thế tác phẩm của ông còn được gọi là Siracide. Chúng ta xét đến nội dung và nhất là công dụng của cuốn sách và đặt tên cho nó là Huấn ca, vì lẽ đặc biệt từ thời thánh Cyprianô nói thường được Giáo hội dùng để giáo huấn tân tòng (và vì thế trong tiếng Pháp nó còn được gọi là: Ecclesiastique, tức là sách để Giáo hội dùng để dạy dỗ). Nội dung của nói quả thật có giá trị huấn luyện.
Tác giả là một người Do Thái đạo đức, khả giả, và khôn ngoan ở thời Hy Lạp đô hộ, tức là vào khoảng năm 200 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh. Ông thấy văn minh Hy Lạp đang chi phối đời sống của dân Chúa. Triết lý Hy Lạp cũng đang len lỏi vào tâm tư của nhiều người. Ben Sira không bài ngoại nhưng cân nhắc. Ông suy nghĩ đắn đo. Ông thấy Lời Chúa vẫn trổi vượt. Làm sao để đồng bào của ông cũng thâm tín như vậy? Ben Sira mượn lối văn khôn ngoan, đi từ những kinh nghiệm thực tế, suy nghĩ theo lương tri và nhận ra ơn cứu độ chỉ có nơi Lời Chúa mạc khải. Ông viết các suy tư vụn vặt của ông ra giấy trắng mực đen, để dạy dỗ con cháu và môn sinh trung thành với Lời Chúa. Ông đem Lời Người vào thực tế, hòa hợp sự khôn ngoan triết học với chân lý mạc khải, làm ra quyển sách có giá trị này để dạy dỗ người đời.
Hôm nay trong đoạn sách vừa nghe, tác giả khuyên chúng ta hãy ở khiêm hạ. Các bản dịch không nhất trí với nhau về mọi từ ngữ; nhưng ý chính vẫn được tôn trọng. Ben Sira khuyên rằng: trong mọi sự, kể cả trong giàu có và lúc thế lực, chúng ta hãy ở khiêm hạ. Tư thế của ông cho phép ông khuyên như vậy mà không sợ bị phản đối: vì ông cũng là người giàu có và có thế lực. Kinh nghiệm cho ông thấy rằng cả khi có tiền có quyền, tốt hơn cứ ở khiêm hạ vì hai lẽ: vừa đẹp lòng người vừa đẹp lòng Chúa.
Người ta vẫn thích thái độ khiêm hạ, vì nó nói lên lòng kính trọng kẻ khác và ý chí nhẫn nhục không muốn đè bẹp một ai nhưng chờ đợi sự hiểu biết của mọi người. Nó gây được lòng thiện cảm của mọi người đang khi vẫn làm cho mọi người thấy khả năng đích thực của người có thế lực.Người có khả năng càng nhiều khiêm hạ bao nhiêu càng dễ thành công bấy nhiêu vì khả năng của họ chinh phục được cả lòng người nữa. Còn đối với Thiên Chúa, thái độ khiêm hạ của con người là cớ để Chúa càng mở rộng lòng rộng rãi đối với họ. Người thấy họ bé nhỏ trước mặt mình, nên Người càng thương và càng muốn ban ơn. Chính vì vậy mà tiên tri Sôphônia đã nhìn thấy Dân Chúa sau này gồm toàn những người khiêm hạ, tức là những người khó nghèo được đầy ơn vì họ biết mình hèn hạ ở trước mặt Chúa nên được Người đổ đầy ơn Cứu độ (3,12).Chúng ta ngày nay còn hiểu rõ giá trị của thái độ khiêm hạ này hơn nữa vì chính Ðức Giêsu đã dạy: Hãy học với Ta mà ở hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,28-30).
Thế là từ một nhận xét theo kinh nghiệm thấy rằng con người cư xử khiêm hạ luôn luôn được mọi người chấp nhận, tác giả sách Huấn ca tìm thấy giá trị sâu xa của thái độ ấy nằm trong Lời Chúa, và mạc khải của Người. Chính Người muốn huấn luyện dân được tuyển chọn nên những con người hiền lành và khiêm nhường để được chấp nhận trong thời kỳ cứu độ. Viễn tượng này làm cho lời khuyên khiêm hạ của tác giả có giá trị bất khả kháng vì hết mọi con cái Israen thời bấy giờ không sợ gì hơn bị loại khỏi những con số được cứu vớt.
Tuy nhiên tác giả còn muốn triển khai thêm. Ông cho thấy nết xấu ngược lại, tức là tính kiêu ngạo là một thứ bệnh nan trị. Nó là thứ cây xấu đã đâm rễ từ trong lòng người ta, thì hành vi ngôn ngữ hết thảy của họ đều xấu xa tội lỗi. Ông có thể đã nghĩ đến thái độ của Pharaô kiêu căng cố chấp nên đã đi từ thảm hại này đến thẩm hại khác. Có lẽ ông cũng đã nghĩ nhiều hơn đến thái độ của dân Do Thái trong suốt lịch sử cứng đầu cứng cổ và lòng dạ chai đá đối với Lời Chúa. Ông nghĩ rằng con người có tư cách, sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng lãnh được Lời Hứa của Người phải là kẻ khôn ngoan có thái độ môn sinh, biết nhận xét thực tại nhưng nhất là biết lắng nghe Lời. Hai thái độ này làm cho người ta biết sống và đạo đức. Người ta phải học hỏi và quan sát thực tế, nhưng nhất là phải để Lời Chúa hướng dẫn tâm tư. Một con người như vậy sẽ đẹp lòng Chúa và không sợ sai lầm. Họ là người khôn của Nước Trời, vượt xa sự khôn ngoan của thế gian.
Lời của Ben Sira đã đem đạo vào đời. Quan niệm và tư tưởng của ông còn rất mới. Tuy nhiên chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng, Ðức Giêsu còn dạy dỗ cụ thể và sâu xa hơn nữa, làm chứng Tân Ước sẽ kiện toàn Cựu Ước.
2. Hãy Hạ Mình Xuống
Theo thánh Luca, hôm ấy là ngày Sabát; người ta vừa đi lễ vừa nghỉ ngơi. Các gia đình ăn uống khá hơn ngày thường. Và người ta dễ mở tiệc đãi khác, vậy, một đầu mục Biệt phái mời Ðức Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông. Có lẽ ông cũng chẳng có thịnh tình đặc biệt gì đối với Người.Nhiều người Biệt phái khác cũng đã mời Người dùng bữa (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Họ đều muốn dò xét xem Người là con người thế nào. Nên có nhiều Biệt phái và Luật sĩ cũng được mời đến ăn để tiếp chuyện Người.
Theo thông lệ, khi mời các bậc "thầy" đến dùng bữa, người ta muốn nghe biết đạo lý của các Ngài. Ðức Giêsu vẫn được tôn là "Thầy", nên hôm nay trăm mắt cũng đổ dồn vào Người để đón nghe lời đạo lý. Nói đúng ra, hôm nay đã có cớ để Ðức Giêsu mở miệng phát biểu. Có một người mắc bệnh thủy thủng đứng trước mặt Người. Người hỏi các Luật sĩ và Biệt phái: có được chữa bệnh ngày hưu lễ không? Họ không muốn trả lời. Nhưng Người đã cho người kia được khỏi bệnh, để làm chứng - hay nói đúng hơn, để gợi lên ý tưởng - Người là Ðấng Cứu Thế đã đến ở giữa họ. Người muốn chữa lành tâm tư tội lỗi của mọi người.
Thế nên thấy Luật sĩ và Biệt phái luôn chọn chỗ nhất, chỗ cao nơi bàn ăn cũng như nơi hội đường, Ðức Giêsu nhớ đến những câu trong bộ sách Khôn ngoan, đặc biệt mấy lời trong sách Huấn ca và Châm ngôn nói rằng: Ông lớn mời con, con hãy ở xa, để ông càng xích lại mời (Hc 13,9); Con đừng xin địa vị cao sang với Vua Chúa (7,4); Trước mặt vua, con chớ nên vênh váo và đừng ngồi vào chỗ của kẻ quyền cao; bởi, được người ta nói: "xin mời lên đây" thì tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt vương công (Cn 25,6-7). Ít ra những lời Ðức Giêsu nói với Biệt phái và Luật sĩ hôm nay đã phản ánh và làm dội lại lập trường khôn ngoan được ghi trong Sách thánh. Người ta có thể thấy Người cũng có lập trường chính thống và họ không thể phản đối Người. Hơn nữa Người đã nhắc lại cho người ta và cho những người "kiêu ngạo nhất" giáo lý của sách Huấn ca dạy mọi người hãy ở khiêm hạ. Và Người đã áp dụng giáo lý ấy vào một trường hợp cụ thể và cho những con người cụ thể.
Chúng ta có thể hỏi: Không biết các Luật sĩ và Biệt phái có khó chịu khi nghe những lời như vậy không? Nhưng rõ ràng Ðức Giêsu đã muốn dùng lối văn gián tiếp, kiểu văn khôn ngoan của thời đại; nên họ có khó chịu cũng không đến nỗi nào.
Người cũng dùng một kiểu nói như vậy để hướng về phía chủ nhà đã mời Người. Ông ta cũng muốn được nghe một lời nào cho riêng mình, theo như tâm lý của mọi người khi mời một bậc thầy đến dùng bữa để được nghe lời khôn ngoan. Người dạy: "khi nào thết tiệc, ngươi hãy mời những kẻ ăn mày, tàn tật, què quặt, đui mù; và ngươi sẽ có phúc, vì họ không có gì báo đền ngươi lại. Bởi chưng ngươi sẽ được báo đền khi kẻ lành sống lại".
Ðây cũng còn là những điều dạy trong luật pháp, nhưng hoặc không rõ, hoặc bị quên lãng. Ðức Giêsu đã triển khai giáo huấn của sách Thứ luật nói rằng "Cuối mỗi ba năm, ngươi sẽ đem ra tất cả thập phân về hoa lợi của ngươi năm ấy và ngươi sẽ cất lại trong cổng thành ngươi; để Lêvi, người không có phần hay cơ nghiệp chung với ngươi, và khách cư ngụ, cùng mồ côi quả phụ ở trong cổng thành ngươi sẽ đến; họ sẽ ăn và được no nê; ngõ hầu Thiên Chúa của ngươi chúc phúc cho ngươi trong mọi công việc ngươi làm" (14,28). Ðiều mà luật pháp dạy làm cứ mỗi ba năm Ðức Giêsu nói hãy làm bất cứ lúc nào. Và khi luật pháp bảo cứ để sẵn đó cho người ta đến dùng, Ðức Giêsu bảo hãy đi mời người ta lại; cuối cùng luật pháp hứa cho người ta được đền bù ở đời này, Ðức Giêsu nói sẽ được báo đáp ở đời sau. Ðức Giêsu đã chẳng lặp lại ý nguyên luật pháp; Người đã triển khai, kiện toàn và đưa luật pháp lên bình diện đạo đức thiêng liêng hơn.
Nhưng như vậy chúng ta chỉ mới nhìn sự việc đúng lúc xảy ra trong cuộc đời của Ðức Giêsu khi Người còn tại thế. Thánh Luca khi viết lại bài Tin Mừng hôm nay đã có một kinh nghiệm mới hơn. Người đang sống trong Hội Thánh mà vẫn nhìn thấy Hội Thánh cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta sẽ không hiểu hết ý của Người nếu dừng câu chuyện lại ở thời Ðức Giêsu. Qua câu chuyện ấy, chúng ta còn phải đón nhận giáo huấn của thánh Luca về bàn tiệc Thánh Thể và Hội Thánh.
Khi mở đầu bữa ăn bằng việc chữa lành một người bị thủy thủng, Ðức Giêsu không muốn bữa ăn Người dự nên bữa tiệc cánh chung và cứu thế hay sao? Thiên Chúa, trong ngày cứu độ, sẽ chữa lành mọi tật bệnh và tội lỗi của loài người và đưa họ vào tiệc cưới muôn đời của Người. Nếu thế thì không thể có những người kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn ở bàn tiệc này, nhưng khi thay vào chỗ của họ là những kẻ khó nghèo, tàn tật, què quặt, đui mù.
Thế nên những người đã được đưa vào bàn tiệc như vậy vừa phải có tinh thần khiêm hạ, vừa phải có lòng quảng đại vô vị lợi. Chỉ khi nào như vậy, các bàn tiệc Thánh Thể mới diễn tả được bữa ăn tiệc ly của Chúa. Ngày dùng bữa tiệc ấy, Người đã hạ mình như thế nào để rửa chân cho môn đệ và Người đã trao ban rộng rãi vô vị lợi làm sao khi phó nộp thân thể mình làm của ăn và của uống!
Suy nghĩ như vậy, các bài Kinh Thánh chúng ta vừa đọc mới thật sự ý nghĩa; và mới giúp chúng ta đi sang bài thư Hípri.
3. Hãy Tiến Lại Gần
Tác giả đang nói những lời "an ủi". Người so sánh số phận dân cũ và dân mới. Tôn giáo thời nào cũng đưa người ta đến gần Thượng đế. Nhưng ngày xưa ở núi Sinai, dân Cựu Ước đã tiến lại gần núi thánh mà rụng rời. Quang cảnh trời long đất lở, sấm chớp hãi hùng làm cho con cái Israen phải xin với Môsê làm sao để Thiên Chúa đừng nói thẳng với họ kẻo họ chết hết. Xin Người cứ dùng ông mà mạc khải tôn ý. Ðạo cũ vì thế không thể thoải mái được. Ðó là giai đoạn còn luyện lọc thanh tẩy.
Nhưng đạo mới không còn như vậy nữa. Tất cả đã thay đổi. Chúng ta ngày nay đã được tiến lại gần núi Sion và Giêrusalem thiên đài, tức là đã được đưa sang một thế giới khác, thế giới thiêng liêng của Thiên Chúa hằng sống. Các yếu tố thiên nhiên vật chất như lửa, mây, sấm, chớp không còn nữa. Người tín hữu lúc này được bao vây toàn bằng những thực tại thiêng liêng: nào là cộng đoàn những trưởng tử đã được đăng ký trên trời, tức là cộng đoàn các tín hữu đã được ghi danh vào sổ hằng sống, nào là vạn vạn thiên thần trong ngày đại hội. Nhất là người theo đạo mới đã được tiến lại gần ngai ân sủng là chính Thiên Chúa, Ðấng phán xét mọi người nhưng vô cùng khoan dung rộng rãi với con cái, nhờ Ðấng trung gian mới là Ðức Giêsu đã đổ máu rửa sạch tội lỗi chúng ta.
Ðó là thế giới đức tin của người tín hữu. Họ đã được đưa vào từ ngày chịu phép Thánh Tẩy; và ngày nay mỗi khi đến gần bàn thờ để cầu nguyện và cử hành Thánh Thể họ lại được đưa vào thế giới thiêng liêng cao cả ấy. Thân phận của họ như vậy thì các chỗ ngồi và ngôi thứ ở trần gian này còn đáng quan tâm nữa không? Nói đúng hơn, ơn Chúa đã đưa con người vào thế giới thiêng liêng tốt đẹp như vậy để họ thấy phải đem thực hiện tương tự như thế trong đời sống trần gian. Nơi đó con người được hòa đồng với mọi người trong tình bác ái tốt đẹp và quảng đại, thì họ cũng phải thi hành những tinh thần ấy khi sống trong xã hội với mọi người.
Nếu những điều kiện chúng ta vừa nói trên đây là đúng, thì chúng ta hãy nghĩ đến công việc chúng ta đang làm. Chúng ta đang ở gần bàn thờ.Chúng ta sắp hiệp thông trong thánh lễ. Ðây không phải là bàn tiệc Nước Trời sao? Ở đây không được có óc biệt phái, nhưng phải hòa hợp.
Hơn nữa, phải xem gương Ðức Giêsu hạ mình và xả thân rất quảng đại. Chúng ta có thể nào dự lễ sốt sắng rồi về nhà lại sống phân biệt ích kỷ? Các bài Kinh Thánh hôm nay đưa chúng ta vào thánh lễ, thì thánh lễ phải đưa chúng ta vào đời sống, để tinh thần khiêm hạ, xả kỷ không phải chỉ là lời khuyên nhưng trở thành nếp sống đạo mới của chúng ta theo gương Ðức Giêsu, Ðấng đã dạy chúng ta hãy học với Người mà ở khiêm nhường và hiền lành trong lòng; và đã mở cửa Nước Trời và bàn tiệc Nước Trời nguyên cho những người như vậy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)