Tục danh của ngài là Hildebrand, sinh năm 1015 tại Sovana miền Toscane, trong một gia đình trung lưu nước Ý. Từ thời niên thiếu, ngài đã sống trong bầu khí tu viện và nhờ trí thông minh, lòng đạo đức, đã thu lượm nhiều kết quả tốt đẹp.
Thế kỷ thứ 10 và tiền bán thế kỷ 11 là những ngày u tối cho Giáo hội, một phần là vì giáo triều chỉ là con cờ của một vài gia tộc ở Rôma. Sau khi được Ðức Lêô IX chọn làm Hồng y, Đức Hildebrand giữ nhiều chức vụ và sứ mạng quan trọng dưới triều các vị Giáo hoàng Lêô IX, Victo II, Stêphanô IX, Nicôla II và Alexandre II, và đã góp phần loại trừ những tai họa quấy rối Giáo hội là nạn buôn thần bán thánh (mua bán các chức vụ cũng như đồ vật thiêng liêng), nạn giáo sĩ kết hôn bất hợp pháp và nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ (vua và các nhà quý tộc kiểm soát việc bài sai các viên chức Giáo hội), bênh vực đức tin, chống lại những giáo thuyết sai lầm của các bè rối.
Sau khi Đức Alexandre II mất (1073), ngài được bầu lên kế vị. Dù ở địa vị Giáo hoàng, ngài vẫn tiếp tục sống một cuộc đời khắc khổ như cũ, và đặt nền tảng mọi hoạt động trên việc cầu nguyện. Đức Grêgôriô VII nhận thấy rằng nếu không cầu nguyện, thì không thể làm được việc gì tốt cho Thiên Chúa.
Việc loại bỏ ảnh hưởng của thế lực chính trị khỏi Giáo hội đã khiến Đức Grêgôriô VII bị vua Henri IV của nước Đức căm tức, nên ngài đã bị ép phải rời bỏ Rôma đến sống tại Salênô. Ở đó ngài qua đời ngày 25.5.1085. Lời vàng ngọc của ngài trối lại khi sắp chết: “Tôi yêu sự công chính và ghét điều bất công. Ðó là lý do tôi phải chết trong cảnh lưu đày này”.
Năm 1606, Đức Thánh Cha Phaolô V đã tôn phong Grêgôriô VII lên bậc Hiển thánh.
Siêu tầm