Giáo hội đã dành Chúa nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn gọi giáo sĩ. Ơn gọi là gì? Có phải chỉ có các giáo sĩ mới có ơn gọi? Ngoài ơn gọi giáo sĩ, còn ơn gọi nào nữa không?
Chúa gọi để làm chuyện gì?
Kinh thánh nói đến việc Chúa gọi ở nhiều phương diện và cấp độ.
– Theo nghĩa rộng nhất, “Chúa gọi” có nghĩa Chúa ban sự hiện hữu cho vạn vật và cách riêng là cho con người. Việc tạo dựng được quan niệm như hậu quả của tiếng Chúa gọi: Chúa gọi con người từ chỗ hư vô sang hiện hữu.
– Lên một cấp nữa, “Chúa gọi” có nghĩa là Chúa mời gọi con người đến thông phần hạnh phúc với Ngài. Ơn gọi này cũng hướng tới tất cả mọi nhân sinh, được thánh Phaolô diễn tả trong thư gửi Êphêsô như là “Thiên Chúa tuyển chọn ta trong Đức Kitô trước khi tạo thành vũ trụ, để ta được trở nên tinh tuyền thánh thiện” (Ep 1,4; xc. 1Cr 1,2).
Ta thấy hai ý niệm “kêu gọi” và “tuyển chọn” được gắn liền với nhau, nhằm nêu bật tình thương của Thiên Chúa dành cho hết mọi người. Tuy vậy, trong lịch sử cứu độ, chúng ta cũng nhận thấy rằng tình thương mà Thiên Chúa bao phủ hết mọi người không ngăn cản việc Ngài tuyển chọn một dân tộc làm dân riêng, như trường hợp dân Israel trong Cựu Ước. Tân Ước áp dụng tư tưởng đó vào dân mới của Thiên Chúa, tức là Hội thánh. Các phần tử được mời gọi một đàng là chia sẻ chức thiên tử của Đức Kitô, đàng khác là mang ơn cứu độ cho đồng loại. Đây là nguồn gốc của ơn gọi người Kitô hữu được công đồng Vaticanô II nhắc tới nhiều lần, khi nói đến “ơn gọi nên thánh” hay “ơn gọi truyền giáo”.
Như vậy là tất cả các tín hữu đều được ơn Chúa gọi, phải không?
Đúng như vậy. Qua bí tích rửa tội, tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh, nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, vừa trong tư cách là con cái hiếu thảo của Chúa Cha vừa trong tư cách là mang Tin Mừng đến cho nhân loại.
Đến đây, chúng ta vẫn còn nằm ở cấp độ mà thần học gọi là ơn gọi phổ quát, nghĩa là hướng đến tất cả mọi tín hữu, không trừ riêng ai. Tuy nhiên, chúng ta hãy đi thêm một bước nữa. Thần học chú ý đến vài đoạn Phúc Âm nói đến việc Chúa gọi vài cá nhân và ủy thác cho họ một sứ mạng đặc thù nào đó. Thí dụ khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ đi theo Người: “hãy theo tôi”. Lời kêu gọi này hàm ngụ rằng họ phải rời bỏ môi trường nơi mình đang sinh sống để dấn thân phục vụ một kế hoạch mà Chúa vạch cho họ. Hiểu theo nghĩa này, trong Tân Ước chúng ta phải đặt Đức Maria vào hàng tiên phong của những người được Chúa gọi, qua trung gian của thiên sứ Gabriel; rồi đến các môn đệ và về sau, thánh Phaolô cũng khẳng định là mình được Chúa gọi làm tông đồ để đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Thần học gọi đó là “ơn gọi riêng” đối lại với “ơn gọi chung” (hay phổ quát). Dù sao, ta cũng nên ghi nhận rằng giữa hai bên có sự liên hệ mật thiết: Thiên Chúa kêu gọi một số người (ơn gọi riêng) đi phục vụ toàn thể cộng đoàn (ơn gọi chung).
Có bao nhiêu thứ ơn gọi riêng?
Câu trả lời tùy theo ngôn ngữ mà ta sử dụng. Trong ngôn ngữ thông thường, ta có thể nói tới rất nhiều ơn gọi riêng, hiểu theo nghĩa là mỗi người được Chúa ban tài nghệ nào đó để phục vụ xã hội: khả năng trí tuệ, đầu óc tổ chức, năng khiếu nghệ thuật, v.v.. Theo ngôn ngữ thần học, từ ngữ “ơn gọi” được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, dựa theo những mẫu gương của Đức Maria và các môn đệ vừa nói trên đây.
Một cách cụ thể hơn, trong quá khứ người ta nói đến hai ơn gọi: vào hàng giáo sĩ (ơn gọi linh mục) và vào hàng tu sĩ. Ngày nay, người ta muốn nói đến ơn gọi “đi theo Chúa Kitô” theo gương các môn đệ, với hai nét chính: một đàng là ở gần kề Chúa, và đàng khác là loan báo Tin Mừng. Thực vậy, khi đọc lại các trình thuật Tân Ước về ơn gọi các môn đệ, chúng ta thấy trước hết họ được yêu cầu hãy rời bỏ nếp sống hiện tại (kể cả gia đình, nghề nghiệp) để đến chia sẻ cuộc sống giống như Chúa Giêsu, một nếp sống phục vụ Tin Mừng vừa bằng lời giảng vừa bằng nếp sống.
Có gì khác biệt giữa hai lối nhìn cũ và mới?
Theo tôi nghĩ, có sự khác biệt quan trọng. Theo lối nhìn trước đây, người ta nói đến ơn gọi vào hàng ngũ giáo sĩ và hàng ngũ tu sĩ. Lối nhìn này có thể đưa tới hai sự hiểu lầm đáng tiếc.
– Thứ nhất, người ta cho rằng hàng giáo sĩ thì lo việc tông đồ, còn hàng tu sĩ thì lo chuyện tu đức. Sự tách rời hai khía cạnh như vậy khá nguy hiểm. Các giáo sĩ dễ biến thành công chức, còn các tu sĩ thì chỉ nghĩ tới sự thánh thiện bản thân. Trên thực tế, cả hai khía cạnh đó liên hệ mật thiết với nhau, như ta thấy trong cuộc đời của Đức Maria và các môn đệ của Chúa.
– Sự hiểu lầm thứ hai là những ai không phải là giáo sĩ hay tu sĩ thì được miễn việc tu thân hay làm việc tông đồ. Sự thực không phải như vậy; có rất nhiều người lãnh nhận ơn gọi phục vụ Tin Mừng tuy không gia nhập hàng giáo sĩ và tu sĩ.
Vì thế lối nhìn mới muốn lưu ý chúng ta tiên vàn hãy lấy Chúa Giêsu làm trung tâm. Chúa kêu gọi ai là vì yêu thương người đó, muốn cho họ chia sẻ sứ mạng với Ngài. Nhưng trước khi tính đến chuyện làm ăn, Người muốn cho môn đệ nhận ra tình yêu của Người, muốn gắn bó với Người. Tình yêu này không dừng lại ở mức độ tình cảm nhưng còn diễn ra việc hoà đồng tâm tình và nếp sống giữa hai thầy trò (chẳng hạn tính khiêm tốn, hiền hậu, phục vụ, phó thác). Khi đã thấm nhuần tinh thần đó rồi, người môn đệ được mời gọi chia sẻ niềm thao thức của Người đối với ơn cứu độ nhân loại. Họ được mời gọi lên đường mang Tin Mừng cho đồng loại. Như vậy, tất cả vấn đề ơn gọi xoay quanh bản thân của Chúa Giêsu: ơn gọi làm môn đệ Chúa, đáp lại tình yêu của Chúa, và chia sẻ vào nếp sống của Chúa.
Ơn gọi đi theo Chúa có thể diễn tả cụ thể ra nhiều hình thức khác nhau. Có người tham gia vào chức vụ mục tử nhân lành, phân phát lương thực tinh thần (Lời Chúa, các bí tích) cho các tín hữu, cũng như xây dựng các cộng đoàn. Có người tham gia vào việc biểu lộ tình thương của Chúa qua một công tác bác ái cụ thể: chăm sóc người bệnh tật, giáo dục thiếu nhi, an ủi những kẻ bị xã hội bỏ rơi, hoặc âm thầm cầu nguyện cho Nước Chúa được mở rộng. Tôi xin nhấn mạnh: ngày nay có nhiều tín hữu dấn thân phục vụ Tin Mừng dưới nhiều hình thức (kể cả đi truyền giáo cho dân ngoại), mặc dù họ không gia nhập hàng ngũ linh mục và tu sĩ.
Thế còn các tín hữu sống đời hôn nhân thì sao? Có thể nói đến ơn gọi lập gia đình hay không?
Tùy theo chúng ta hiểu tiếng “ơn gọi” theo nghĩa nào. Lúc nãy tôi có nói đến ơn gọi theo nghĩa rộng, nghĩa là khám phá những tài năng riêng mà Chúa ban để phục vụ cộng đoàn. Nếu tôi có năng khiếu nghệ sĩ, tôi sẽ đem tài năng giúp cho nhân loại thưởng thức cái đẹp. Việc theo đuổi một nghề nghiệp này đòi hỏi sự rèn luyện, cũng như chấp nhận những méo mó của nghề nghiệp. Vì thế trước khi dấn thân vào con đường đó, ta cần phải tìm hiểu xem mình thực sự có năng khiếu hay không. Tôi nghĩ rằng có thể hiểu ơn gọi lập gia đình theo nghĩa đó, tuy vẫn biết rằng tỉ số lập gia đình thì cao hơn số các nghệ sĩ. Nói thế có nghĩa là người tín hữu trước khi lập gia đình cần phải ý thức về sứ mạng của gia đình trong chương trình của Chúa (tựa như là giúp cho đôi bạn thánh hóa nhờ tình yêu hỗ tương, giáo dục con cái nên công dân trần thế và công dân Nước Trời), và phải rèn luyện những đức tính cần thiết để trở thành người chồng hay người vợ, người cha người mẹ. Nếu chưa đủ điều kiện thì đừng nên tiến tới (tựa như người điếc thì đừng nên học âm nhạc).
Còn ơn gọi theo nghĩa chặt thì nên được dành cho ơn gọi đi theo Chúa Kitô để phục vụ Tin Mừng. Điều này giả thiết là họ không lập gia đình, ngõ hầu dành tất cả con tim cho Chúa, cũng như dấn thân phục vụ một lý tưởng cao hơn tầm nhìn của trần thế. Người đời đi tìm thành công, danh vọng, lợi lộc: những điều này tự nó không phải là xấu xa; nó trở thành xấu khi sử dụng những phương pháp bất chính để chiếm đoạt chúng, hoặc sử dụng chúng vào mục tiêu phi pháp. Còn người phục vụ Tin Mừng đi tìm những giá trị khác mà sức loài người không thể đạt được, tỉ như: ơn cứu độ, bình an, yêu thương, tha thứ, nhẫn nhục. Chỉ trong cái nhìn đức tin, chúng ta mới nhìn nhận đó là những giá trị, và cũng cần có ơn thánh Chúa thì mới có thể thực hiện được các giá trị đó. Trong bối cảnh đó, Giáo hội thấy cần cầu nguyện cho những ơn kêu gọi như vậy.
* * *
Cầu xin cho những người được Chúa gọi được biết can đảm đáp lại tiếng Chúa cho dù phải hy sinh. Cầu xin cho những người đã đáp lại tiếng Chúa được biết kiên tâm, không bỏ cuộc cho dù gặp thử thách.
Nguồn .Lm . Phan Tấn Thành .OP