Trước khi đọc bài này, bạn hãy
suy nghĩ và trả lời tiếp hai câu hỏi sau:
1. Có một điều tôi nhận thấy Đức Giê-su đặc biệt
lôi cuốn, đó là...
2. Điều làm tôi dễ nhận biết Đức Giê-su là Con
Thiên Chúa, đó là...
GIÊ-SU
Ít
năm trước đây, báo Reader's Digest có nhờ sử gia H. G. Wells lựa ra sáu nhân
vật tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.
Mặc dù Wells không phải là Ki-tô hữu, ông vẫn chọn Đức Giê-su đứng hàng
đầu. Sự lựa chọn này của ông không căn
cứ vào số đông người tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, nhưng đúng hơn, như
Wells giải thích thế này:
"Một
sử gia phải coi Đức Giê-su là một con người, tựa như một họa sĩ phải vẽ Ngài
như một người bình thường... Sử gia đó
phải sẵn sàng nói lên một sự thật hiển nhiên không thể thay đổi, cho dù sách
của ông ta được người ta đọc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Đó mới là chỗ đứng của người viết sử qua
những tư tưởng thâm sâu họ trình bày."
Vậy
Wells đã có những tư tưởng nào? Ông ta
đã đề ra hai tư tưởng tiêu biểu:
Tư
tưởng thứ nhất về đặc tính là Cha của Thiên Chúa. Điểm này dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng
tạo dựng vũ trụ này đang chăm lo cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Ngài ban sự sống cho chúng ta và chúng ta là
con cái Ngài. Điều này có nghĩa tất cảø
chúng ta đều là anh chị em. Wells nói
nếu chúng ta thực thi lời dạy của Đức Giê-su, thì chúng ta và cả thế giới sẽ
thay đổi không thể tưởng tượng nổi.
Tư
tưởng thứ hai là lời dạy của Đức Giê-su về nước Thiên Chúa. Nếu như nhân loại có cùng một nguồn gốc, thì
họ cũng có cùng một thân phận. Lịch sử
có hướng đi, đang tiến về một nơi nào đó.
Thiên Chúa có kế hoạch riêng biệt cho nhân loại. Không ai sẽ bị loại ra ngoài kế hoạch
đó. Mỗi người là một phần của kế hoạch
đó và mỗi người đều tiếp tay với kế hoạch đó.
Một lần nữa, nếu chúng ta thực thi lời dạy của Đức Giê-su, bộ mặt của
trái đất sẽ thay đổi.
Như
vậy, Đức Giê-su hiện diện trong lịch sử nhân loại như một người vô song. Sứ điệp của Ngài không những hợp thời trong
những ngày đầu cuộc đời rao giảng của Ngài mà vẫn còn hợp thời cho ngày hôm
nay.
Những
điều nói trên đưa chúng ta đến một câu hỏi quan trọng nhất cần nêu lên và tìm
câu trả lời:
Đức Giê-su là ai?
Tại
một khu đậu xe ở Dallas, có một chủng sinh lái xe vào đậu trong đó. Đằng sau xe có hàng chữ ICHTHYS xếp thành
hình con cá. Một bà hỏi anh chữ đó nghĩa
là gì. Anh chủng sinh trả lời đó là chữ
Hy-lạp, viết tắt do những chữ Iesous Christos, Theou Yios, Soter ("Giê-su
Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế").
Từ ngữ này gồm tóm hai chân lý quan trọng nhất mà các Ki-tô hữu thời Hội
Thánh sơ khai hằng tin tưởng:
* Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.
* Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế.
Vì
những chữ tắt làm thành từ Hy-lạp có nghĩa là cá, nên những tín hữu đầu tiên đã
chọn hình con cá như một biểu tượng về Đức Giê-su.
CON THIÊN CHÚA
Vào
tối Chúa Nhật Phục Sinh, Đức Giê-su đã hiện ra với các Tông đồ. Ông Tô-ma vắng mặt trong buổi gặp gỡ đó. Kết quả là Tô-ma đã phủ nhận việc Đức Giê-su
đã sống lại và hiện ra.
Một
tuần sau, Đức Giê-su lại hiện ra cùng các Tông đồ. Thấy Tô-ma có mặt, Đức Giê-su quay về phía
ông và nói: "Đưa tay ra mà đặt vào
cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin." Lập tức Tô-ma quỳ
sụp xuống và nói: "Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20:27-28).
Đức Giê-su là Chúa
Kể
từ giây phút đó cho đến nay, từ ngữ Chúa trở thành một danh hiệu dành riêng để
gọi Đức Giê-su. Trong bài giảng sau khi
Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Phê-rô nói về Đức Giê-su như sau: "Thiên Chúa đã đặt Người (Đức Giê-su)
làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô" (Cv 2:36).
Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Rô-ma:
"Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng
Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ"
(Rm 10:9).
Cho
nên một trong những danh hiệu mà các tín hữu đầu tiên xưng tụng Đức Giê-su, đó
là danh hiệu Chúa. Điều ấy chứng tỏ họ
tin tưởng Đức Giê-su là Thiên Chúa.
Danh
hiệu thứ hai họ gọi Đức Giê-su để biểu lộ đức tin vào thiên tính của Ngài, đó
là danh hiệu Con Thiên Chúa.
Đức Giê-su là Chúa Con
Các
tác giả Kinh Thánh Cựu Ước đã dùng từ ngữ con Thiên Chúa để chỉ về những vị ở
trên trời (G 2:1), về các vua Do-thái (2 Sm 7:14) hoặc về chính dân Ít-ra-en
(Hs 11:1).
Các
tác giả Kinh Thánh Tân Ước dùng danh hiệu này cho Đức Giê-su. Thí dụ, Mác-cô mở đầu sách Tin Mừng bằng
câu: "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su
Ki-tô, Con Thiên Chúa." Để kết thúc
sách Tin Mừng, Mác-cô ghi lại việc viên đội trưởng Rô-ma sau khi chứng kiến
cuộc tử hình của Đức Giê-su đã phải thốt lên:
"Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15:39).
Học
hỏi kỹ những sách Tin Mừng, chúng ta thấy các tác giả dùng danh hiệu Con Thiên
Chúa với ý nghĩa khác hẳn các tác giả Cựu Ước.
Danh hiệu Con Thiên Chúa được dùng để gọi Đức Giê-su hiểu theo nghĩa rõ
ràng chứ không phải theo nghĩa ám chỉ như thời Cựu Ước.
Đức Giê-su là Ngôi Lời
Sách
Tin Mừng Gio-an mở đầu với lời tựa giới thiệu Ngôi Lời:
"Lúc
khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi
Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và
Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Ngôi
Lời đã trở nên người phàm
và
cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng
tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người."
(Ga
1:1,14)
Đức
Giê-su là Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác con người và sống giữa chúng
ta. Ngôi Lời chào đón, mời gọi, thông
đạt và mạc khải. Điều này cho chúng ta
thấy một điểm rất quan trọng: Ngài mạc
khải không những qua những gì Ngài nói, mà còn qua những gì Ngài thể hiện.
Charles
Schulz, tác giả hoạt họa Peanuts đã nói:
"Điều tôi nhận thấy Đức Giê-su có ý nghĩa với tôi, đó là qua Ngài
chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa và hiểu được những cảm nghĩ của Thiên Chúa
về chúng ta."
Thư
gửi tín hữu Do-thái nói về Đức Giê-su như sau:
"Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể
Thiên Chúa" (Dt 1:3). Chính Đức
Giê-su cũng nói: "Ai thấy Thầy là
thấy Chúa Cha" (Ga 14:9).
Đối
với một người có đức tin, Đức Giê-su quả là vô song trong lịch sử nhân loại, vì
Ngài đã làm cho Thiên Chúa hiện diện trong thân xác con người. Qua Đức Giê-su, chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa
trở nên con người như chúng ta, sống giữa chúng ta, sống động đến độ như chúng
ta có thể sờ được Ngài và nhìn thấy Ngài, đúng như Gio-an đã viết:
"Điều
vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,
điều
chúng tôi đã nghe,
điều
chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều
chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và
tay chúng tôi đã chạm đến,
đó
là Lời sự sống.
Quả
vậy, sự sống đã được tỏ bày,
chúng
tôi đã thấy và làm chứng...
để
chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi,
mà
chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha
và
với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.
Những
điều này, chúng tôi viết ra
để
niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn."
(Ga
1:1-4)
Đức
Giê-su là Lời của Thiên Chúa vì Ngài mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta.
Tuy
nhiên, Ngài còn làm cho chúng ta nhận thức được chính chúng ta một cách rõ ràng
hơn. Ngài là hình ảnh toàn hảo của một
con người mà mỗi người chúng ta phải cố gắng đạt tới. Qua Ngài, chúng ta thấy rằng với bản năng của
một con người, chúng ta có thể vượt thắng nọi khó khăn để trở nên hoàn
hảo. Nhân tính của Đức Giê-su đã chứng
minh điều đó. Tất cả những gì Ngài đã
làm, chúng ta đều có thể làm được, chẳng hạn như yêu thương kẻ thù, tha thứ cho
kẻ bách hại ta, làm bạn với kẻ bị ruồng bỏ, và có khả năng thay đổi người khác
bằng ánh mắt hay lời nói.
Đức
Giê-su là Lời của Thiên Chúa theo hai ý nghĩa.
Qua bản tính Thiên Chúa, Ngài hé mở cho chúng ta hiểu được Thiên
Chúa. Qua bản tính loài người, Ngài thể
hiện mức độ hoàn hảo của con người mà chúng ta đều có thể trở thành - nếu chúng
ta mở lòng đón nhận lời giảng và Thánh Thần của Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.
Đức Giê-su là vô song
Đức
Giê-su được gọi là "vô song" trong lịch sử nhân loại vì một sự kiện
thật đơn giản: Ngài không những là
"con người" vì sinh ra do một người nữ, nhưng còn là Con Thiên Chúa
vì được sinh ra bởi Thiên Chúa. Trong
một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su mang hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân
loại. Ngài liên kết tất cả những gì là
con người với tất cả những gì là Thiên Chúa.
Để
cố gắng diễn tả sự huyền nhiệm này, thi sĩ Richard Crashaw đã nói về Đức
Giê-su:
"Muôn
lạ lùng tụ về trong một vẻ uy nghi
Là
vĩnh cửu giam mình trong hạn hữu!
Chúa
là mùa hạ giữa mùa đông lạnh lẽo
Là
ngày bừng sáng trong đêm tối âm u
Là
thiên đàng nơi trần gian tội lỗi sa mù
Là
Thiên Chúa trong con người dương thế."
Như
vậy, để tuyên xưng đức tin vào thiên tính của Chúa Ki-tô, các tín hữu đầu tiên
đã gọi Đức Giê-su bằng những danh hiệu:
* Chúa
* Con Thiên Chúa
* Lời Thiên Chúa.
ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN LOẠI
Ngoài
việc tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, các tín hữu sơ khai còn tin Ngài là Đấng
Cứu Chuộc nhân loại. Họ đã tuyên xưng
niềm tin này khi gọi Ngài bằng:
* tên Giê-su
* danh hiệu Ki-tô
* danh hiệu Đấng Cứu Thế.
Chúng
ta cùng tìm hiểu kỹ hơn về những tên và danh hiệu này.
Giê-su nghĩa là "Thiên Chúa
cứu rỗi"
Trong
Kinh Thánh, tên gọi thường liên hệ với lai lịch của một người.
Sự
kiện đầu tiên nói về lai lịch của Đức Giê-su đó là tên gọi mà thiên sứ bảo ông
Giu-se phải đặt cho Ngài: "Ông phải
đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của
họ" (Mt 1:21). Như vậy thiên sứ đã
cho thấy Đức Giê-su là Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Điều
này đưa chúng ta tới danh hiệu Ki-tô.
Ki-tô nghĩa là "Đấng được
xức dầu"
Một
thời điểm quan trong nhất trong toàn bộ Tin Mừng đó là biến cố tại Xê-da-rê
Phi-líp-phê khi Đức Giê-su hỏi Phê-rô "Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?" và Phê-rô trả lời "Thầy là Đấng Ki-tô" (Mc 8:29). Từ ngữ Mê-si-a là tiếng Do-thái, dịch sang
tiếng Hy-lạp là Christos, nghĩa là Đấng được xức dầu.
Từ
ngữ này dùng để chỉ về một người được Thiên Chúa tuyển chọn và giao phó cho một
sứ mệnh. Lần đầu tiên Đức Giê-su nói về
chính Ngài là Đấng được xức dầu là khi Ngài ở trong hội đường Na-da-rét. Ngài đọc đoạn Kinh Thánh trích sách ngôn sứ
I-sai-a:
"Thần
Khí Chúa ngự trên tôi,
vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để
tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người
đã sai tôi đi công bố
cho
kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
cho
người mù biết họ được sáng mắt,
trả
lại tự do cho người bị áp bức,
công
bố một năm hồng ân của Chúa."
(Lc
4:18-19)
Rồi
Đức Giê-su đã thốt lên những lời đáng nhớ sau đây: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh
quý vị vừa nghe" (Lc 4:21). Đức
Giê-su đã coi mình như người được Thiên Chúa trao cho sứ vụ "cứu
chuộc" đặc biệt.
Việc
Đức Giê-su được "xức dầu" đã xảy ra trong dịp Ngài chịu phép rửa, khi
ấy tầng trời mở ra, rồi Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời
phán: "Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3:22). Sau này, khi nói với dân chúng về biến cố ấy,
ông Phê-rô giảng rằng: "Quý vị biết
rõ... Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và
quyền năng mà xức dầu tấn phong Người.
Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma
quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:36-38).
Danh
hiệu Mê-si-a chỉ về Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để
thi hành sứ vụ cứu chuộc họ.
Đức Giê-su được gọi là Đấng Cứu
Thế
Ngày
nọ Đức Giê-su gặp một phụ nữ cạnh bờ giếng bên ngoài một ngôi làng. Ngài đã làm
cho bà hết sức ngạc nhiên đến nỗi bà chạy về làng và nói với dân làng: "Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô
sao?" (Ga 4:29). Họ kéo đến và xin
Ngài dạy dỗ họ. Sau khi nghe giảng xong,
dân làng nói với nhau: "Quả thật,
chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian"
(Ga 4:42).
Đức
Giê-su đã chinh phục nhiều người khác cũng một phương thức như vậy. Thí dụ sau khi Đức Giê-su trở về với Chúa
Cha, thánh Gio-an viết cho các Ki-tô hữu sơ khai như sau: "Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,
chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa...
Đó là Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian"
(1 Ga 1:3, 4:14).
Từ
ngữ Đấng Cứu Thế mang ý nghĩa dưới hai khía cạnh: Đức Giê-su cứu thoát chúng ta khỏi điều gì và
để làm gì.
Để
hiểu rõ hơn về khía cạnh thứ nhất, bạn hãy nhớ lại sau khi được Thiên Chúa dựng
nên, ông A-đam đã phạm tội. Lập tức tội
lỗi bắt đầu lan tràn khắp thế gian. Thảm
cảnh này đã được mô tả trong sách Sáng-thế.
Sự kiện trên đưa chúng ta đến một kết luận khủng khiếp: tội lỗi đã bao trùm nhân loại đến độ đem lại
sự chết. Nhân loại sẽ đi đến hủy diệt
nếu Thiên Chúa không can thiệp để cứu vớt họ.
Chính trong bối cảnh tội lỗi hủy diệt công cuộc tạo dựng mà chúng ta
thấy rõ Đức Giê-su cứu thoát chúng ta khỏi điều gì. Ngài cứu chúng ta khỏi họa bị hủy diệt. Ngài cứu chúng ta khỏi sự chết. Thánh Phao-lô diễn tả sứ mệnh của Đức Giê-su
như sau:
"Vì
một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự
chết... Cho nên, cũng như vì một người
duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy
nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên
công chính, nghĩa là được sống." (Rm 5:12,18)
Đức
Giê-su được gọi là Đấng Cứu Thế vì Ngài cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự
chết. Được rửa tội trong Đức Ki-tô,
chúng ta trở nên chi thể của Nhiệm Thể Ngài và được ban sự sống mới trong
Ngài. Điều này đưa chúng ta sang khía
cạnh thứ hai của sứ mệnh cứu chuộc của Đức Giê-su: Ngài đã cứu chuộc chúng ta để làm gì?
Qua
Bí tích Rửa tội, chúng ta được củng cố để tiếp tục công cuộc cứu chuộc mà Đức
Giê-su đã khởi sự. Chúng ta đã được cứu
khỏi tội lỗi để làm công việc tái tạo trần gian mà tội lỗi đã phá hủy. Chúng ta được cứu chuộc để làm công việc hoàn
tất triều đại của Thiên Chúa. Những ai
nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế thì đều trở nên một phần tử trong công cuộc làm
thay đổi trần gian. Trách nhiệm của
chúng ta lúc này là hãy đem Nước Chúa đến cho mọi người.
Như
vậy, những Ki-tô hữu đầu tiên đã tuyên xưng rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế khi
gọi Ngài bằng tên Giê-su và bằng các danh hiệu Ki-tô và Đấng Cứu Thế.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH
1. Gio-an 20:24-31 Đừng nghi ngờ nữa!
2. Gio-an 4:1-41 Phải
chăng Ngài là Đấng Ki-tô?
3. Phi-líp-phê 2:1-11 Hãy nên giống như Ngài!
4. 1 Gio-an 4:7-14 Chúa Con - Đấng Cứu Thế
5. Rô-ma 8:31-39 Tình
yêu của Thiên Chúa qua Đức Giê-su.
THẢO LUẬN
1. Theo hai ý nghĩa nào để hiểu Đức Giê-su là
Lời của Thiên Chúa?
2. Suy nghĩ về tương quan giữa những từ ngữ
Mê-si-a, Ki-tô và Đấng được xức dầu.
3. Đức Giê-su đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi để
chúng ta cùng với Ngài tái tạo thế giới.
Vậy vai trò của chúng ta trong công cuộc này như thế nào?
CHIA SẺ
1. Thảo luận tư tưởng sau: "Ngay lúc này nếu Chúa Giê-su đến, người
ta đâu cần đóng đinh Ngài. Người ta sẽ
mời Ngài đi ăn tối, lắng nghe xem Ngài giảng điều gì, rồi sẽ diễu cợt những lời
giảng dạy ấy" (Thomas Carlyle). Bạn
có đồng ý không?
2. Nếu hôm nay Chúa Giê-su đến, Ngài sẽ chọn 12
tông đồ từ những nhóm nào: doanh thương,
công nhân, thể tháo gia nhà nghề, sinh viên, ca sĩ...?
3. Văn hào Mark Twain viết: "Nếu hôm nay Chúa Giê-su đến, có một
điều chắc Ngài sẽ không làm: đó là làm
một Ki-tô hữu." Bạn nghĩ sao?
4. Khi nghi ngờ như thánh Tô-ma, bạn sẽ làm gì?
The Catholic Vision I - 4
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm Trần đình Nhi