1. Phản ứng của tôi về câu truyện Kinh Thánh kể lại Thiên Chúa tạo
dựng vũ trụ trong bảy ngày là…
2. Theo tôi, thuyết tiến hóa hợp (hay không hợp) với những gì Kinh
Thánh nói, vì…
GIẢI THÍCH KINH THÁNH
Năm
1925, tiểu bang Tennessee đã thông qua
đạo luật cấm chỉ việc dạy thuyết tiến hóa trong các trường trung học
công lập. John Scopes, một giáo sư trung
học, phạm luật và bị bắt giữ. Luật sư danh
tiếng Clarence Darrow biện hộ cho Scopes.
William Jennings Bryan, một ứng cử viên tổng thống, lãnh việc truy tố.
Trước
sự ngạc nhiên của mọi người, một trong những việc đầu tiên Darrow làm là gọi
Bryan ra chất vấn. Mở sách Kinh Thánh,
Darrow đọc đoạn Thiên Chúa dựng nên ánh sáng trong ngày thứ nhất và dựng nên
mặt trời trong ngày thứ tư. Rồi ông ta
hỏi Bryan làm sao có thể có ánh sáng khi chưa có mặt trời. Sau đó ông hỏi Bryan có tin là Thiên Chúa đã
lên án và phạt con rắn phải bò bằng bụng không. Bryan trả lời ông tin. Darrow tấn công: “Vậy ông có thể nói cho tôi biết trước đó thì
con rắn di chuyển bằng gì?” Bryan nổi
giận và tố cáo Darrow đã nhạo báng Thiên Chúa và Kinh Thánh. Darrow la lớn: “Tôi phản đối lời buộc tội ấy. Tôi đang chất vấn ông về những ý nghĩ điên
khùng của ông, những ý nghĩ mà quan điểm của Ki-tô giáo không còn tin như thế
nữa.”
Câu
truyện nổi tiếng trên đã nêu lên một số vấn đề quan trọng về Kinh Thánh phải
được giải thích như thế nào.
Hai nhóm người đọc Kinh Thánh
Để
vấn đề được đơn giản, chúng ta tạm chia những người đọc Kinh Thánh làm hai nhóm
chính: những người hiểu Kinh Thánh theo
nghĩa đen và những người hiểu theo văn mạch.
Những người hiểu theo nghĩa đen, cũng được gọi là những người phái chính
thống, giải thích Kinh Thánh theo từng chữ và nói rằng phải hiểu đúng như là
những gì Kinh Thánh nói. Còn những người
hiểu theo văn mạch giải thích Kinh Thánh theo mạch văn và nói rằng chúng ta
phải xét hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và văn ngữ theo đó Kinh Thánh đã được viết. Điều này là xác thực, nhất là đối với mười
một chương đầu của sách Sáng Thế gồm những câu truyện có liên hệ tới thời tiền
sử là thời gian mù mờ giữa lúc con người xuất hiện và lúc thuật lại câu truyện
của họ.
Thí
dụ, chương thứ ba sách Sáng Thế đã mô tả con rắn nói chuyện với bà E-và. Vậy có phải tác giả Kinh Thánh muốn bảo rằng
đã có một thời rắn biết nói chuyện với người?
Hoặc chương thứ nhất thì nói loài người được dựng nên sau cùng, còn
chương thứ hai lại nói họ được dựng nên trước hết. Vậy tác giả Kinh Thánh đã không biết như thế
là mâu thuẫn hay sao?
GIẢI THÍCH VỀ VIỆC TẠO DỰNG
Bây
giờ chúng ta hãy nghe nhóm hiểu theo văn mạch giải thích câu truyện tạo
dựng. Trước hết chúng ta đọc lại đoạn
Kinh Thánh.
“Lúc
khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.
Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và
thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
“Thiên
Chúa phán: “Phải có ánh sáng!” Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên
Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên
Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”.
Qua một buổi chiều và một buổi sáng:
đó là ngày thứ nhất.
“Thiên
Chúa phán: “Phải có một cái vòm ở giữa
khối nước, để phân rẽ nước với nước.”
Thiên Chúa đã làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước
phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là “trời”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
Thiên
Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ
lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có
như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là
“đất”, khối nước tụ lại là “biển”. Thiên
Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Thiên
Chúa phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh
tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tùy theo loại,
trong có hạt giống.” Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tùy
theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tùy theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
Thiên
Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên
vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và
năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm
trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như
vậy. Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng
lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển
ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm;
Người cũng làm ra các ngôi sao.
Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều
khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một bưởi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.
Thiên
Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy
những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm
trời.” Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái
khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tùy theo loại, và mọi
giống chim bay tùy theo loại. Thiên Chúa
thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc
phúc cho chúng rằng: “Hãy sinh sôi nảy
nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim
phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.”
Qua một buổi chiều và một buổi sáng:
đó là ngày thứ năm.
Thiên
Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh
vật tùy theo loại: gia súc, loài bò sát
và dã thú tùy theo loại và loài bò sát dưới đất tùy theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Thiên
Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con
người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá
biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên
Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
Thiên
Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt
đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá
chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt
giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương
thực cho các người. Còn đối với mọi dã
thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi
thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền
có như vậy.” Thiên Chúa thấy mọi sự
Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua
một buổi chiều và một buổi sáng: đó là
ngày thứ sáu.
Thế
là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công
việc Người làm. Khi làm xong mọi công
việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
Thiên
Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó, vì ngày đó Người đã
nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người. (Sáng Thế 1:1-2:3)
Câu truyện được viết theo một
khuôn mẫu
Câu
truyện tạo dựng được đọc lên như một bài thơ.
Nói chung, mỗi ngày đều theo một khuôn mẫu gồm năm phần: giới thiệu, mệnh lệnh của Thiên Chúa, thi
hành mệnh lệnh đó, xác nhận “sự tốt lành,” và xác định ngày. Khuôn mẫu được sắp đặt cụ thể như sau:
Mở
đầu: “Và Thiên Chúa phán”
Mệnh
lệnh: “Nước hãy…”
Thi
hành: “Và đã xảy ra như vậy”
Xác
nhận: “Thiên Chúa đã thấy thế là tốt
lành”
Ngày: “Ngày thứ năm.”
Những gì đúng cho một ngày thì
cũng đúng cho cả tuần lễ tạo dựng. Tuần
lễ cũng theo khuôn mẫu như sau:
Ngày 1: Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng và phân rẽ khỏi bóng tối.
Ngày 2: Thiên Chúa phân rẽ nước bên trên (mưa) với nước bên dưới
(biển).
Ngày 3: Thiên Chúa phân rẽ nước bên dưới (biển) ra khỏi đất khô.
Ngày 4: Thiên Chúa cho cư ngụ trong bầu trời với mặt trời, mặt trăng và
tinh tú.
Ngày 5: Thiên Chúa cho cư ngụ trong vòm trời đầy chim chóc và trong đại
dương nhung nhúc cá biển.
Ngày 6: Thiên Chúa cho cư ngụ trên mặt đất các thú vật và loài người.
Ngày 7: Thiên Chúa ăn mừng; Ngài
chúc lành cho ngày này và nghỉ ngơi.
Như thế, tuần lễ tạo dựng đi theo
khuôn mẫu:
- Ba ngày phân rẽ,
- Ba ngày cho cư ngụ, và
- -
Một ngày để ăn mừng.
Những
khuôn khổ văn chương này cho chúng ta thấy chúng ta đang đọc một lối viết văn
rất khác biệt. Không phải lối văn viết
do những gì mắt thấy tai nghe hoặc như các sách khoa học. Trái lại, đây là loại văn gặp trong các sách
cho trẻ em. Tác giả các sách này dùng
những câu truyện đơn sơ, thơ mộng để dạy trẻ em về cuộc sống. Những câu truyện ấy dễ đọc và dễ nhớ.
Tác
giả sách Sáng Thế đã chọn lối viết như thế để dạy về Thiên Chúa, vì hầu hết
những người cổ xưa đâu có biết đọc biết viết.
Họ học mọi sự qua lời nói bằng miệng.
Do đó một câu truyện thơ mộng thì dễ nhớ, lại vui và dạy người ta biết
nhiều.
Câu truyện dạy điều gì?
Để
hiểu những gì tác giả Kinh Thánh có ý dạy qua câu truyện tạo dựng, chúng ta cần
xét tới hoàn cảnh lịch sử và văn hóa theo đó câu truyện được viết. Vào thời ấy, người ta thờ bất cứ loại thần
linh nào họ tưởng tượng ra được. Kinh
Thánh nói đến điều này khi cảnh cáo rằng:
“Anh
em hãy cẩn thận giữ mình: ... đừng có ra
hư hỏng mà làm cho mình một tượng mang hình ảnh bất cứ cái gì: hình người nam hay người nữ, hình bất cứ loài
vật nào trên mặt đất, hình bất cứ loài chim chóc nào bay trên trời, hình bất cứ
loài nào bò dưới đất, hình bất cứ loài cá nào ở trong nước phía dưới mặt
đất. Khi anh em ngước mắt lên trời và
thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, toàn thể thiên binh, thì đừng bị lôi
cuốn mà sụp xuống lạy và phụng thờ chúng” (Đệ Nhị Luật 4:15-19).
- Chân lý đầu tiên tác giả Kinh Thánh muốn dạy
qua câu truyện tạo dựng là chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.
Tác
giả nói lên điểm này khi viết Thiên Chúa tạo dựng nên các thần khác là những
thần mà con người đang lầm lẫn thờ phượng, tức là loài người, súc vật, chim
muông, tinh tú. Nếu các thần khác này đã
được tạo dựng thì chúng đâu có thể là Thiên Chúa được. Nhưng chỉ có một Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng
muôn loài. Chúng ta có thể tóm tắt quan
điểm của tác giả Kinh Thánh như sau:
Niềm
tin cổ xưa: có nhiều thần
Giáo
lý mới: có một Thiên Chúa
Được
dạy thế nào: một Thiên Chúa đã dựng nên
các thần khác.
- Chân lý thứ hai tác giả Kinh Thánh muốn dạy,
đó là Thiên Chúa đã hoạch định công việc tạo dựng.
Nhiều
dân tộc thời xưa (và một số người thời nay) đã tin rằng vũ trụ tự nhiên mà
có. Emanu Elish, một câu truyện của
Babylon cổ xưa dạy như vậy. Ngược lại
câu truyện của Babylon, tác giả Kinh Thánh mô tả Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ
theo một đường lối có trật tự, giống như người thợ mộc dựng một ngôi nhà. Thiên Chúa đã hoạch định việc tạo dựng, chứ
không phải ngẫu nhiên mà nó có. Chúng ta
có thể tóm tắt điểm thứ hai của tác giả Kinh Thánh về nguồn gốc việc tạo dựng
như sau:
Niềm
tin cổ xưa: xảy ra ngẫu nhiên
Giáo
lý mới: xảy ra do hoạch định
Được
dạy thế nào: Thiên Chúa đã tạo dựng theo
phương thức có trật tự.
- Chân lý thứ ba tác giả Kinh Thánh muốn dạy:
mọi sự Thiên Chúa đã tạo nên đều tốt lành.
Những
dân tộc cổ xưa tin rằng một số trong các tạo vật là xấu xa. Thí dụ nhiều người tin rằng thân xác con
người là xấu xa. Họ kết luận như thế vì
xem ra thân xác chống lại tinh thần. Do
đó, họ tin là Thiên Chúa đã dựng nên tinh thần của con người, còn ma quỷ tạo
nên thân xác. Phản lại niềm tin này, tác
giả Kinh Thánh mô tả Thiên Chúa hài lòng với tất cả những gì Ngài dựng nên, kể
cả thân xác con người. Chúng ta có thể
tóm tắt giáo lý của tác giả Kinh Thánh về sự tốt lành của tạo vật như sau:
Niềm
tin cổ xưa: một phần là tốt lành
Giáo
lý mới: tất cả đều tốt lành
Được
dạy thế nào: Thiên Chúa xác nhận sự tốt
lành của tạo vật.
-
Tác giả Kinh Thánh kết thúc câu truyện bằng việc tuyên bố ngày hưu lễ là thánh.
Thời
xưa ngày thứ bảy trong tuần cũng giống như những ngày khác. Tuy nhiên tác giả Kinh Thánh mô tả Thiên Chúa
chúc lành cho ngày thứ bảy và đặt riêng ngày đó ra như một ngày đặc biệt. Ngày ấy phải là ngày để nghỉ ngơi và cầu
nguyện. Chúng ta có thể tóm tắt quan
điểm của tác giả Kinh Thánh về ngày hưu lễ như sau:
Niềm
tin cổ xưa: ngày thứ bảy giống như những
ngày khác
Giáo
lý mới: ngày đặc biệt
Được
dạy thế nào: Thiên Chúa chúc lành cho ngày
đó.
CÂU TRUYỆN TẠO DỰNG THỨ HAI
Một
số người đọc Kinh Thánh bỡ ngỡ khi thấy sách Sáng Thế có tới hai câu truyện nói
về việc tạo dựng. Câu truyện thứ hai bắt
đầu ở chương hai:
Ngày
Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên
mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Đức Chúa là Thiên Chúa chưa
cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và
tưới khắp mặt đất.
Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ
đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh
vật. Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng
một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn
ra. Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất
mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa
vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.
(Sáng Thế 2:4-9).
Tại
sao lại thêm vào câu truyện thứ hai về tạo dựng? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhớ rằng
năm cuốn sách đầu của Kinh Thánh, được gọi là Sách Luật (Torah) hoặc Ngũ Thư
(năm cuốn sách), đã được truyền khẩu từ bao thế kỷ, mãi sau này mới được viết
ra. Rõ ràng là có hai khẩu truyền về
việc tạo dựng. Khi tác giả Kinh Thánh
được linh hứng để chép Sách Luật, ngài gom luôn cả hai khẩu truyền ấy vào trong
cùng một sách. Hai khẩu truyền ấy bổ túc
cho nhau.
Thiên Chúa và con người liên hệ
mật thiết với nhau
Câu
truyện thứ hai về việc tạo dựng mô tả Thiên Chúa nhẫn nại làm công việc tạo
dựng thân xác con người đầu tiên, tựa như người thợ gốm làm công việc nắn một
cái bình. Khi thân xác con người đã được
tạo thành cách hoàn hảo rồi, Thiên Chúa dịu dàng cúi xuống trên nó và thở vào
nó “sinh khí” của Ngài.
Cảnh
tượng cảm động này thật quan trọng. Nó
nói lên liên hệ gần gũi giữa Thiên Chúa và con người tiên khởi. Họ liên hệ gần gũi như người mẹ với đứa con
nhỏ của mình.
Đàn ông và đàn bà liên hệ mật
thiết với nhau
Câu
truyện tạo dựng thứ hai kết thúc với việc Thiên Chúa làm nên một “người bạn
thích hợp” cho người đàn ông đầu tiên.
Đức
Chúa là Thiên Chúa phán: “Con người ở
một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó
một trợ tá tương xứng với nó.” Đức Chúa
là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con
người, xem con người gọi chúng là gì: hễ
con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế.
Con người đặt tên cho mọi súc
vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một
trợ tá tương xứng. Đức Chúa là Thiên
Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người
ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là
Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn
bà và dẫn đến với con người.
Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt
bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn
bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.”
Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ
mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. (Sáng Thế 2:18-24).
Tác
giả Kinh Thánh đã sống trong một xã hội do đàn ông làm chủ. Xã hội này coi phụ nữ thuộc giai cấp thứ
hai. Phụ nữ còn được coi trọng là vì họ
sinh con cái, nhất là con trai để đi lính chiến đấu và làm công nhân. Nhiều người đọc Kinh Thánh giải thích câu
truyện thứ hai về tạo dựng được viết nhằm phản kháng tình trạng xã hội như
thế. Khi mô tả người đàn bà xuất xứ từ
cùng một thể chất như đàn ông, tác giả Kinh Thánh muốn dạy rằng nàng cũng có
một phẩm cách ngang hàng với đàn ông.
Câu
truyện tạo dựng thứ hai còn dạy về sự thân mật trong hôn nhân. Thiên Chúa đã phán dạy hai người phải nên
“một thân thể.” Họ phải có sự thân thiết
với nhau tựa như Thiên Chúa thân mật với loài người. Như thế Thiên Chúa cho thấy rằng mục đích của
hôn nhân không phải chỉ để có con cái mà thôi, nhưng còn là một liên hệ mật
thiết để vợ chồng yêu thương và nâng đỡ nhau.
Tóm
lại, câu truyện thứ hai về tạo dựng bổ túc cho câu truyện thứ nhất với hai điểm
đặc biệt:
- Sự thân mật giữa Thiên Chúa và loài người
- Sự thân mật và bình đẳng giữa nam nữ.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH
1. Thánh Vịnh 19:1-6 Quảng cáo về Thiên Chúa
2. Thánh Vịnh 104 Công việc diệu kỳ
3. Gióp 38:1-24 Từ
giữa cơn giông tố
4. Thánh Vịnh 8 Vinh
quang của tạo vật
5. Khải Huyền 21:1-8 Tạo dựng mới
SUY NGHĨ
1. Tác giả Kinh Thánh dạy bốn chân lý nào về
việc tạo dựng?
2. Tại sao sách Sáng Thế có hai câu truyện về
việc tạo dựng?
3. Giải thích câu truyện thứ hai về tạo dựng bổ
túc cho câu truyện thứ nhất thế nào?
CHIA SẺ
1. Làm sao câu truyện về tạo dựng trong sách
Sáng Thế không khác mấy với những dụ ngôn của Đức Giê-su?
2. Inherit the Wind là vở kịch dựa trên việc tòa
án Tennessee xử vụ John Scopes, sau này
làm thành phim. Màn thứ nhất, Cates
(đóng vai Scopes) đã yêu Rachael là con gái của một mục sư phái truyền
thống. Màn thứ hai, Rachael bó buộc phải
làm chứng phản lại Cates và công nhận rằng đã có lần anh ta bảo “Thiên Chúa đã
dựng nên con người theo hình ảnh Ngài, nhưng con người lại ra vẻ kiêu căng
không muốn ca ngợi Ngài.” Cates muốn nói
gì? Và bạn đồng ý với anh ta tới mức
nào?
3. Inherit the Wind kết thúc với cảnh Brady
(Darrow) xếp cuốn Kinh Thánh và cuốn Origin of the Species của Darwin bên cạnh
nhau trong cặp xách tay của ông ta để chuẩn bị trở về Chicago. Bạn nghĩ hành vi biểu tượng ấy có ý nghĩa
gì? Bạn đồng ý với ý nghĩa ấy chứ?
4. Bạn có khuynh hướng thuộc nhóm đọc Kinh Thánh
theo phái chính thống hay văn mạch? Tại
sao?
5. Một số người nghĩ rằng Thiên Chúa đọc cho
những tác giả Kinh Thánh viết, giống như một người đọc cho thư ký của mình
viết. Người khác lại nghĩ là các tác giả
Kinh Thánh được linh hứng, giống như nhà soạn nhạc được gợi hứng âm nhạc. Một số khác lại nghĩ Thiên Chúa đặc biệt soi
sáng cho những người viết, đến nỗi họ
chỉ viết tất cả những gì Thiên Chúa muốn họ viết. Trong ba ý kiến này, bạn nghĩ ý kiến nào đáng
tin cậy nhất? Tại sao?
6. Phần nào trong câu truyện tạo dựng nói cho
bạn nhiều nhất về Thiên Chúa?
7. Mọi người đều có khuynh hướng hưởng nhận việc
tạo dựng diệu kỳ như là “cho không biếu không.”
Làm sao bạn có thể giữ được sống động việc ý thức sự diệu kỳ để giúp bạn
luôn biết cảm tạ Chúa?
The Catholic Vision II – 9
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm Trần đình Nhi