Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

MARIA, MẸ THIÊN CHÚA

Nguyễn Việt Hữu, chuyển ngữ
 Vào năm 429 sau công nguyên, tại thành phố Constantinople, dân chúng được nghe một bài giảng. Vị giảng thuyết đã nói: “Đừng ai gọi Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa.  Ma-ri-a chỉ là một phụ nữ, và đã là một phụ nữ thì không thể sinh ra Thiên Chúa.”  Những lời kỳ quặc này đã tạo chấn động lớn nơi tín hữu Constantinople, nhất là khi đạo lý đó lại được chủ trương do một người tên là Nestorius –
vị giám mục của họ.  Ông từ chối gọi Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa vì ông không tin rằng Thiên Chúa và Đức Giê-su Ki-tô là một và cũng là cùng một ngôi vị.  Ông chủ trương Thiên Chúa và Đức Ki-tô là hai ngôi vị riêng biệt, được kết hợp với nhau một cách lạ lùng, nhưng tách biệt nhau, do đó Đức Ki-tô con người chỉ bắt đầu hiện hữu khi được sinh ra do Đức Maria, trong khi Đức Ki-tô Thiên Chúa thì đã có từ trước muôn đời.  Cho dù Nestorius có đề cao sự kết hợp mật thiết giữa Đức Kitô con người và Đức Ki-tô Thiên Chúa đến thế nào đi nữa, thì đối với ông, Đức Kitô và Thiên Chúa vẫn là hai ngôi vị khác nhau.  Do đó Ma-ri-a chỉ là mẹ của một con người – hoàn toàn một con người.

            Tất cả điều này nghe thật chói tai đối với người Công Giáo thời ấy cũng như với chúng ta ngày nay.  Nó đã gây nên rối loạn cho đức tin Kitô giáo nơi dân chúng.  Bởi đó, để đối phó kịp thời, hai năm sau, các giám mục trong Hội Thánh Công Giáo nhóm họp công đồng tại Ê-phê-xô, đã làm sáng tỏ tất cả những gì thuộc đức tin Ki-tô giáo trước đó, và những gì thuộc đức tin Kitô giáo từ đó trở đi.  Các ngài đã khẳng định: “Đức Kitô là Thiên Chúa thật và do đó, Thánh Nữ Đồng Trinh cũng là mẹ Thiên Chúa – bởi vì Mẹ đã sinh ra thân xác của Ngôi Lời làm người, như Kinh Thánh đã viết rằng: ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’.” Kitô hữu không còn phải bận tâm, vì không còn gì để nghi ngờ nữa.

            Thời đó cũng như ngày nay, hiển nhiên cái lý do cạm bẫy để những ai từ chối không gọi Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa chính là sự tách biệt Đức Ki-tô ra – tách biệt Đức Kitô thành “Đức Giê-su con người” và “Đức Giê-su Thiên Chúa – “Đức Gie-âsu trên trời” và “Đức Giê-su dưới thế”. Nhưng theo thánh Gioan Tông đồ: “Thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4:3).  Cho nên hữu ý hay vô tình, họ đã biến Đức Ki-tô thành một con người hoàn toàn phàm tục nếu họ cho rằng Maria chỉ là mẹ của một con người mà thôi.

            Trả lời cho câu hỏi:  “Có phải Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa không?” cũng chính là trả lời cho câu hỏi:  “Đức Giê-su là ai và làm gì?”  Hai câu hỏi không thể tách biệt, cũng như Đức Ma-ri-a và Con của ngài không thể tách biệt.  Câu trả lời của Công Giáo luôn luôn rõ rệt và nhất quán – nhất quán theo những đòi hỏi của lẽ phải và theo những dữ kiện gặp thấy trong Tân Ước.

ĐỨC KITÔ LÀ THIÊN CHÚA


            Những dữ kiện này là gì?  Chúng ta có thể trình bày những dữ kiện ấy cách ngắn gọn như sau:  trong Tân Ước, Đức Giê-su Ki-tô được nói đến như là Thiên Chúa và Ngài rõ ràng được gọi là Thiên Chúa. Ngài được mô tả như một con người đích thực cũng như Ngài được gọi là một người đàn ông.  Điều ấy rõ ràng có nghĩa Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa nhưng lại có bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Không phải bản tính Thiên Chúa trở thành loài người hoặc bản tính loài người trở thành Thiên Chúa.  Hai bản tính vẫn riêng biệt, nhưng kết hợp lại nơi Ngài vì chúng thuộc về cùng một ngôi vị là Đức Giê-su Ki-tô.

            Xác nhận những dữ kiện này trong Kinh Thánh không có gì là khó hoặc không thích đáng.  Đức Giê-su Ki-tô rõ ràng được gọi là “Thiên Chúa” trong một số đoạn Kinh Thánh.  Sau khi sống lại, lúc Ngài hiện ra với các Tông đồ và trách Tô-ma thiếu lòng tin, thì “Ông Tô-ma thưa Ngài: ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con’” (Ga 20:28).  Đơn thuần là Tô-ma muốn tuyên xưng đức tin của ông, không hẳn về việc Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, nhưng còn về thần tính trong ngôi vị của Ngài, điều được minh chứng do sự phục sinh là chứng lý hiển nhiên cuối cùng.  Trong ý nghĩa ấy, Đức Giê-su đã trả lời ông: “Tô-ma, vì anh đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.”

            Viết cho Ti-tô (2:12), thánh Phao-lô đã đơn giản gọi Đức Ki-tô là Thiên Chúa khi ngài khích lệ Ki-tô hữu hãy “sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” Điểm đáng chú ý là thánh Phao-lô không nói về hai người khác nhau nhưng ngài muốn nói chỉ duy Đức Ki-tô mới vừa là “Thiên Chúa vĩ đại”, vừa là “Đấng Cứu Độ” chúng ta.

            Thánh Gio-an Tông đồ đã hết sức rõ ràng khi ngài viết: “Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật và chúng ta ở trong Thiên Chúa thật, ở trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô.  Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.” (1 Ga 5:20).

            Không còn khẳng định nào rõ ràng hơn những lời thánh Phao-lô nói về Đức Ki-tô “là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự.  Chúc tụng Ngài đến muôn thuở muôn đời” (Rm 9:5).

            Trong Kinh Thánh Đức Giê-su Ki-tô không chỉ được gọi là Thiên Chúa mà thôi, nhưng Ngài còn được gán cho những đặc tính mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể có và được thuật lại như những hành động thực hiện mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được. Những đoạn như thế thật nhiều, nhưng chúng ta chỉ nhắc đến một số thật hiển nhiên.  Chỉ duy Thiên Chúa mới có quyền phép lớn lao và chỉ có Ngài mới có thể tạo dựng do quyền phép vô cùng của Ngài. Khi nói về Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã viết: “Vì trong Người muôn vật được tạo thành” (Cl 1:16). Và “chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành” (1 Cr 8:6). Và thánh Gio-an đã viết: “Không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1:3).

            Chỉ có Thiên Chúa mới là vĩnh cửu, nhưng chính Đức Ki-tô lại nói Ngài có trước Áp-ra-ham là người đã sống và đã chết cả hàng trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế ra đời (Ga 8:58). Ngài còn nói Ngài có trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17:5).

            Do đó, không ngạc nhiên khi thấy Đức Ki-tô đòi hỏi người ta phải tôn kính Ngài với sự tôn kính dành cho Thiên Chúa mà thôi (Ga 5:23), và Ngài đã đưa ra những lời hứa mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thực hiện được: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14:14).

            Ở đây chúng tôi không có ý trích dẫn thật nhiều đoạn Tân Ước để trình bày và xác nhận việc Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật.

ĐỨC KI-TÔ LÀ NGƯỜI    

            Tân Ước cũng rõ ràng khi bàn về một sự kiện khác.  Đó là Đức Giê-su Ki-tô đã sống như một người phàm thật sự.  Lịch sử cuộc đời Ngài và cách cư xử của Ngài với người khác đã được ghi lại chi tiết.  Sau phục sinh, khi gặp lại các tông đồ, Ngài đã phản đối họ: “ ‘Sao lại hoảng hốt?  Sao lòng anh em còn ngờ vực?  Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!  Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?’ Nói xong, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem... và Ngài ăn trước mặt các ông” (Lc 24:38-43).  Đó là những lời nói của một người đã bị đóng đinh, là người đã cùng sống, cùng ăn uống và cùng ngủ nghỉ với các tông đồ, là người đã làm việc tại Na-da-rét, và là người như một hài nhi được đặt nằm trong máng cỏ.  Ngài đã sử dụng cách lý luận thật đơn giản và chắc chắn. “Trong quá khứ anh em đã không nghi ngờ rằng Thầy là người thật sự đã sống trong những năm chúng ta cùng sống với nhau. Vậy thì giờ đây đừng nghi ngờ gì nữa, vì anh em đã nhìn thấy và rờ thấy nên hãy tin.”

            Chỉ có những ai muốn coi nhẹ mọi lịch sử chính đáng, thì mới chối nhận con người lịch sử Đức Giê-su Ki-tô không phải là một con người thật sự.  Nhưng cùng những sử liệu minh chứng việc thừa nhận Đức Giê-su là con người lịch sử thật sự, thì chính những sử liệu đó cũng minh chứng việc thừa nhận Ngài là một ngôi Thiên Chúa với tất cả những đặc tính của Thiên Chúa.

            Từ Kinh Thánh chúng ta biết được rằng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta... Ngôi Lời là Thiên Chúa” và Ngôi Lời là Đức Giê-su Ki-tô; “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác... còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1:1-18).

            Trình bày về Đức Giê-su Ki-tô, thánh Phao-lô đã nói về Ngài như “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.  Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8).  Đúng như vậy!  Đấng là Thiên Chúa do bản tính Thiên Chúa của Ngài đã trở nên người phàm bằng cách mặc lấy bản tính loài người.

TÂM ĐIỂM CỦA KI-TÔ GIÁO

            Có chỗ nào trong sách Tân Ước cho thấy sự khác biệt giữa Đức Giê-su Thiên Chúa và Đức Giê-su con người không?  Hay có chỗ nào nói lên rằng Ma-ri-a là mẹ của một Giê-su và chúng ta được cứu chuộc nhờ một Giê-su khác không?               

Khi chúng ta trả lời câu hỏi “Con của Ma-ri-a là ai?” và trả lời dựa trên những gì Kinh Thánh nói với chúng ta, thì chỉ có thể có một câu trả lời:  Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa nhưng có cả bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính loài người.  Hai bản tính của Ngài với hai quyền lực khác biệt không làm cho Ngài trở nên hai người riêng biệt.  Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, người Con Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đây là sự thật của Mầu Nhiệm Nhập Thể.

            Đó là tâm điểm chân lý Ki-tô giáo. Đó là chân lý căn bản, là trọng tâm của Kinh Tin kính Ki-tô giáo.  Kitô hữu đã nói đến mầu nhiệm này qua nhiều thế kỷ và người ta đã sớm nhận thức được rằng nếu dùng ngôn ngữ loài người để nói về Đức Giê-su Ki-tô, thì chúng ta phải sử dụng thận trọng cũng như phải nghiêm túc giải thích mầu nhiệm ấy.

            Thiên Chúa – một ngôi vị Thiên Chúa – đã mặc lấy thân xác phàm nhân với cơ cấu và những chức năng giống như thân xác mà mỗi người chúng ta đều biết rất rõ.  Người đã tự mặc lấy một linh hồn của con người, một trí khôn của con người, những cảm nghĩ và cảm xúc của con người, giống y như chúng ta khi sinh ra đều có những đặc tính chung của một con người.  Nhưng không vì thế mà Ngài không còn là Thiên Chúa, Đấng có bản tính hoàn toàn là thiêng liêng, không cần một hình thể cấu thành nào, quyền lực ý chí của Người là toàn năng, trí tuệ của Người là thông biết mọi sự, và sự sống của Người đã có từ trước muôn đời và sẽ tồn tại cho đến mãi mãi thiên thu vạn đại.  Thánh Kinh diễn tả Ngài một cách đơn giản là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).

            Ý nghĩa trọng đại của sự thật này bắt đầu soi sáng chúng ta khi chúng ta suy nghĩ rằng: Tất cả điều ấy là thực đối với Thiên Chúa và tất cả điều ấy là thực đối với con người này, tức là với Đức Giêsu Kitô.  Những gì là thực đối với bản tính Thiên Chúa và những gì là thực đối với bản tính loài người đều phải được khẳng định về chính Ngài, tức là về Đức Giêsu Kitô.  Ngài là vô biên, quyền phép vô cùng, thông biết mọi sự và vĩnh cửu. Và cũng là thực khi Ngài là con người nên cũng phải chết, cũng bị giới hạn về sức lực, có thể cảm thấy mệt nhọc và đau đớn, lệ thuộc vào sự tăng trưởng của hình dáng cơ thể và sự hiểu biết loài người.

            Điều đó không có nghĩa là bản tính Thiên Chúa trở thành loài người hay trí khôn không sai lầm của Thiên Chúa trở nên sai lầm, hay bản tính bất tử của Thiên Chúa trở thành phải chết. Thần tính đã không hề biến thành nhân tính. Nhưng có nghĩa là một ngôi Thiên Chúa đã mang lấy bản tính loài người, và nếu ngôn ngữ loài người diễn tả được sự thật, thì những gì Ngài có trong bản tính nhân loại cũng phải là của chính Ngài.

TÂN ƯỚC HỢP LÝ

            Với ý nghĩ này, chúng ta có thể bắt đầu thấy rằng những gì coi có vẻ là mâu thuẫn trong một số đoạn Tân ước thì lại thật là hợp lý.  Thực sự một lần Đức Ki-tô đã có thể nói về chính Ngài: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28), và lần khác Ngài lại nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30).  Vì bản tính loài người của Ngài, Ngài thực sự lêï thuộc vào Thiên Chúa và có thể cầu nguyện cùng với Chúa Cha trên trời, cũng là Cha của mọi người.  Rồi vì cùng một bản tính Thiên Chúa với Chúa Cha, nên Ngài ngang hàng và là một với Chúa Cha.

            Do bản chất yếu đuối của con người, Ngài có thể đổ mồ hôi máu trước cái chết của Ngài, nhưng do quyền phép vô cùng của bản tính Thiên Chúa, Ngài có thể chỉ phán một lời làm cho người chết sống lại.

            Bởi vậy, thánh Phê-rô Tông Đồ đã không vô lý khi ngài tố cáo dân chúng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3:15).  Hay thánh Phao-lô cũng không vô lý khi ngài viết về những kẻ đã “đóng đinh Đức Chúa vinh hiển vào thập giá” (1 Cr 2:8).  Họ đóng đinh và giết Đức Giê-su Ki-tô là Đấng khơi nguồn sự sống, là Đấng Tạo Hóa bất diệt theo như bản tính Thiên Chúa của Ngài, nhưng cũng là Đấng phải chết theo bản tính loài người hay chết của Ngài.

            Vậy rõ ràng là nếu không phải là phi lý khi Phê-rô đã nói Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa lúc ngài nói về những những kẻ giết Đấng khơi nguồn sự sống, thì cũng không phi lý khi chúng ta nói về Đức Giê-su Ki-tô là “Thiên Chúa đã chịu cắt bì – Thiên Chúa đã lạc mất cha mẹ Ngài – Thiên Chúa lớn lên trong sự khôn ngoan và khỏe mạnh – Thiên Chúa đã mệt nhọc và nằm ngủ.”

SINH RA BỞI MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ

            Thánh Phao-lô cũng không đến nỗi phi lý mấy khi ngài nói về việc xuất hiện của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Độ, trong những lời sau đây:  “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật” (Gl 4:4).  Con Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người đàn bà.  Ngôi Lời, Đấng là Thiên Chúa, đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta bằng cách sinh ra bởi một người đàn bà.  Đức Chúa là Thiên Chúa và cứu chuộc chúng ta bằng cái chết trên thập giá, đã sinh ra bởi một người đàn bà.  Người đàn bà đó là Ma-ri-a, mẹ Ngôi Lời, mẹ Thiên Chúa.

            Dẫu vậy, có nhiều người tuy nói một cách thuộc lòng về Ma-ri-a là mẹ Đức Giê-su, lại ngần ngại không muốn gọi Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa.  Họ không hiểu hết ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể.  Không có lý do thích đáng giải thích tại sao một ngôi Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô, Đấng thật sự là người, không thể được thụ thai và sinh ra theo như bản tính loài người này. Điều này không có nghĩa là mẹ Ngài, giống như một thứ nữ thần, sẽ làm cho bản tính Thiên Chúa của Ngài trở nên hiện hữu.  Cũng không có nghĩa là với tính cách là mẹ của một ngôi Thiên Chúa, Ma-ri-a phải hiện hữu trước Ngài.  Đức Ki-tô đã khẳng định rằng Ngài có trước khi Áp-ra-ham sinh ra.  Là Thiên Chúa, nên Ngài là vĩnh cửu.  Và là con người, nên Ngài bắt đầu sống một cuộc sống loài người khi Ma-ri-a mang thai Ngài. Ma-ri-a đã không có trước Thiên Chúa, nhưng Ma-ri-a có trước khi Thiên Chúa mặc lấy bản tính loài người trong cung lòng của bà.

            Nếu không phải là phi lý khi nói Đức Giêsu Kitô, một ngôi Thiên Chúa, đã được mẹ Ngài là Ma-ri-a cho Ngài sự sống loài người, thì cũng không phải là phi lý khi nói cha của Ma-ri-a là ông ngoại của Ngài.  Thiên Chúa có ông ngoại không?  Nếu đặt câu hỏi này mà không liên hệ gì đến Đức Giê-su Ki-tô, thì câu hỏi này thật là ngớ ngẩn.  Nhưng nếu có liên quan đến Đức Giê-su Ki-tô, thì câu trả lời khẳng định sẽ là chân lý phúc âm.

TRINH  NỮ  MA-RI-A

            Một số người không thể thừa nhận Đức Ma-ri-a thực sự là mẹ Thiên Chúa vì họ không nghĩ là Mẹ đã chu toàn chức năng làm mẹ khi mang thai và sinh hạ Đức Giê-su Ki-tô.  Là con của Ma-ri-a, Đức Giê-su Ki-tô đã chịu ơn Mẹ cũng như bất cứ người con nào chịu ơn của mẹ mình.

            Tình mẫu tử của Ma-ri-a với Đức Ki-tô đã là một quan hệ có thực và giữa tình người với người – một quan hệ huyết thống vì Đức Ki-tô là một phần tử trong gia đình của Mẹ, dân tộc của Mẹ và của toàn thể nhân loại.

            “Nhưng các anh nói với chúng tôi là Ma-ri-a vẫn còn đồng trinh,” một số người sẽ nói như vậy. “Chắc chắn nếu ngài vẫn còn đồng trinh khi có thai Đức Ki-tô, thì ngài không phải là mẹ của Đức Ki-tô theo ý nghĩa thường tình được.”

            Phải nhớ rằng cách thức Ma-ri-a có thai Đức Ki-tô là một việc, còn sự kiện ngài đã thực sự mang thai Đức Kitô lại là một việc khác.  Sự vắng mặt của người cha nhân loại trong việc có thai Đức Kitô không liên quan gì đến sự đồng trinh của Ma-ri-a, nhưng thực tế của vai trò làm mẹ khi mang thai Đức Kitô không vì thế mà bị ảnh hưởng.  Học hỏi kỹ lưỡng về những dữ kiện đã được viết trong chương thứ nhất của sách Tin Mừng Lu-ca sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.

            Có nhiều chi tiết ý nghĩa đã được ghi lại trong câu truyện Truyền Tin khi Ma-ri-a chấp thuận làm mẹ Đấng Cứu Thế.  Nhưng vì mục đích của bài này, chúng ta chỉ chú trọng đến những chi tiết làm sáng tỏ những dữ kiện cốt yếu của mầu nhiệm Nhập Thể.

            Nên nhớ rằng chính Thiên Chúa là Đấng đóng vai trò quan trọng trong câu truyện này. Thiên Thần Gáp-ri-en chỉ là sứ giả của Thiên Chúa.  “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en... đến gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se... Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc 1:26-28).  Có thể hiểu được rằng một trinh nữ khiêm hạ như Ma-ri-a sẽ cảm thấy bối rối và ngạc nhiên trước vinh dự và kính trọng sứ thần Thiên Chúa dành cho ngài qua lời kính chào ngài là “Người được chúc phúc giữa những người nữ”. Tại sao Ma-ri-a xứng đáng được kính trọng như vậy?  Lý do được trả lời ngay:  bởi vì “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (nghĩa là Thiên Chúa cứu độ) – một danh xưng nói lên công việc của Ngài, “vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21).

KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA DÀNH CHO MA-RI-A

            Thiên thần đã tuyên bố những việc trọng đại và vinh dự về người con trai sẽ được sinh ra bởi Ma-ri-a, nhưng việc này đã không làm cho Ma-ri-a bối rối.  Ngài đã giản dị tin và chấp nhận đó là những gì Thiên Chúa hoạch định.  Ưu tư của Ma-ri-a không phải là việc này có thể thực hiện được hay không, mà là “Làm sao việc này có thể xảy ra được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”  Câu trả lời này chứa đựng nhiều điều khác nữa, chứ không phải như chúng ta vừa thoạt nhìn.

            Ma-ri-a đã đính hôn với Giu-se và việc đính hôn của ngài có nghĩa là ngài đã trao đổi với Giu-se những lời hôn ước.  Giả như việc đính hôn hôn của Maria không có gì bất thường và ngài không quyết định giữ mình đồng trinh, thì sứ điệp của thiên thần phải cho thấy Ma-ri-a sẽ hợp tác với kế hoạch của Thiên Chúa theo cách tự nhiên của loài người để trở thành một người mẹ.  Nhưng Ma-ri-a, một trinh nữ đã đính hôn, đã thực sự khẳng định rằng theo quan điểm của ngài, ngay cả kế hoạch của Thiên Chúa cũng không thể được thực hiện do quan hệ vợ chồng với người đàn ông.

            Thiên thần đã giải đáp khó khăn này khi lập tức giải thích rằng việc thụ thai Đức Giêsu không phải là do liên hệ vợ chồng với người đàn ông, mà là do quyền năng của Thiên Chúa.  Vẫn là một trinh nữ và vẫn giữ được sự đồng trinh, Ma-ri-a sẽ cưu mang Đức Giê-su và trở thành một người mẹ.

            Mọi nỗi lo lắng về sự đồng trinh đã được giải tỏa, ngài đơn giản chấp nhận với tất cả lòng mình và thiên thần đã từ biệt ngài, sứ mệnh của thiên thần đã hoàn tất.  Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.  Mầu nhiệm Nhập Thể đã được thực hiện.  Khi Ma-ri-a nói: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói,” thì Con Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác người phàm trong lòng Ma-ri-a.    

            Qua suốt biến cố phi thường này theo như Lu-ca đã thuật lại, hiển nhiên với những tư liệu ngài có được từ chính Đức Ma-ri-a, thì không thấy có một ý tưởng hay nhắc nhở nào về vị hôn phu là Giu-se.  Thực ra, cả thiên thần lẫn Ma-ri-a đều rõ ràng gạt ra ngoài sự can thiệp của người đàn ông. Trong trình thuật của Mát-thêu, khẳng định minh bạch là Đức Giê-su không phải là con của ông Giu-se.

            Hai dữ kiện quan trọng và không thể chối cãi đứng biệt lập trong trình thuật Tin Mừng, đó là việc Ma-ri-a thụ thai Con Thiên Chúa và việc ngài vẫn còn đồng trinh.  Trước hết, chúng ta hãy xét lúc Ma-ri-a bắt đầu mang thai khi ngài lần đầu tiên sống tình mẫu tử người-với-người đối với Con Thiên Chúa.

            Một nguyên lý mọi người đều chấp nhận, đó là người đàn bà được gọi là mẹ vì bà mang thai một đứa bé.  Hành vi đầu tiên của chức phận làm mẹ là với những bộ phận của người phụ nữ bà sẽ cung cấp một cái trứng để nó có thể phát triển thành cơ thể con người.  Nguyên việc này thôi chưa đủ để làm cho người đàn bà thành một người mẹ, nhưng mới chỉ là có thể làm mẹ.  Vì trứng không phải là một con người.

            Chức năng của người cha trong việc cung cấp tinh trùng giúp cho trứng thụ thai cũng cần phải có y như thế.  Nhưng nguyên việc thụ thai không làm cho trứng thành một con người.  Cả hai chức năng làm mẹ và làm cha không thể truyền linh hồn thiêng liêng. Và nếu không có linh hồn, thì không có gì gọi được là bản tính loài người hay một con người.

            Trong việc sinh sản tự nhiên và bình thường của con người, khi cả hai chức năng làm mẹ và làm cha kết hợp lại, thì cùng lúc ấy Thiên Chúa cũng tạo dựng linh hồn con người để làm sống động trứng đã được thụ tinh trong lòng người mẹ, và như vậy là một con người đã được thụ thai.  Đó luôn luôn là bản tính con người của một cá nhân – một người có bản tính loài người.

            Điều quan trọng không phải là việc người đàn bà không được dự phần vào việc tạo ra yếu tố thiêng liêng trong bản chất loài người của đứa bé bà cưu mang (vì yếu tố ấy do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng nên), nhưng là việc bà đã cung cấp những chất liệu từ thân thể mình để đi tới việc cấu tạo bản chất loài người của đứa bé, cho nên danh hiệu mẹ dành cho bà là đúng.

MẸ CỦA CON THIÊN CHÚA

            Ma-ri-a được thiên thần xưng tụng là “người được chúc phúc trong giới phụ nữ” là vì danh hiệu tuyệt vời của ngài khi cưu mang Đức Giê-su Ki-tô. Ma-ri-a không chỉ là mẹ của một người con trai, nhưng là mẹ của Con Thiên Chúa.  Cái trứng mà Ma-ri-a cung cấp đã được thụ thai cách nhiệm mầu trong lòng do quyền năng của Thiên Chúa.  Cũng trong lúc đó, bản tính loài người gồm có thân thể và linh hồn đã bắt đầu hiện hữu và là của Con Thiên Chúa, Đấng đã mặc lấy nó.  Ma-ri-a đã trở thành mẹ Thiên Chúa khi phôi thai thân thể Đức Ki-tô được nên sống động nhờ có linh hồn nhân loại, và lập tức lúc đó Ngài đã khởi đầu cuộc sống nhân loại của Ngài trong lòng Đức Ma-ri-a.  Việc này đã xảy ra khi mẹ chấp nhận sứ điệp của Thiên Chúa do thiên thần loan báo, và bởi đó, Ma-ri-a được quyền và được gọi với tước hiệu là mẹ Thiên Chúa.

            Rõ ràng là chức phận làm mẹ của Ma-ri-a, dù tưởng tượng cách nào đi nữa, đã không liên quan gì với việc “sản xuất Thiên Chúa.”  Chính tư tưởng ấy tự nó đã là phi lý.  Tính cách độc lập hoàn toàn của Đấng Tối Cao loại bỏ bất cứ việc “sản xuất” nào không phải do Ngài muốn.  Nhưng Ma-ri-a đã có thể, và đã thực sự cống hiến thịt máu mình cho một ngôi Thiên Chúa để Ngài trở nên người phàm trong lòng mình, thịt máu đã làm cho ngôi Thiên Chúa ấy thành một con trẻ sinh ra bởi ngài.  Do đó, Ma-ri-a đã có mối quan hệ người-với-người đối với Đức Ki-tô, một mối liên hệ ruột thịt giống như mối quan hệ của bất cứ bà mẹ nào với con mình.

            Chức năng làm mẹ của Ma-ri-a trong lúc cưu mang Đức Ki-tô thật là tự nhiên, bình thường và chẳng có gì lạ lùng.  Phép lạ trong việc thụ thai Đức Ki-tô là trong khi không có mặt một người cha nhân loại thì quyền năng của Thiên Chúa đã chủ động làm cho việc có thai của Ma-ri-a được thể hiện mà không cần đến quan hệ vợ chồng dưới bất cứ hình thức nào.  Đồng thời việc làm lạ lùng này của Thiên Chúa đã bảo vệ sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a và làm cho ngài thành một người mẹ.  Như thế, chức năng làm mẹ của Ma-ri-a không phải là mầu nhiệm, nhưng mầu nhiệm ở chỗ quyền năng của Thiên Chúa thay thế cho chức năng của người cha nhân loại.

MỘT BIẾN CỐ LẠ LÙNG

            Việc Ma-ri-a mang thai Đức Giê-su Ki-tô nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà vẫn còn là một trinh nữ hoàn toàn là sự lạ lùng.  Cha Walter Farrell, O.P., viết rằng: “Thách đố của biến cố này hôm nay là một phần của thách đố chung đối với đời sống siêu nhiên. Thách đố không mang danh nghĩa tiến bộ khoa học, mặc dù khoa học đang làm cho nhiều người ngày nay chối bỏ chân lý ấy, nhưng là mang danh nghĩa suy thoái Đức tin.  Ở đây không đặt ra bất cứ vấn đề khoa học nào cả;  bởi vì điểm chính của vấn đề không phải là những gì nguyên nhân gián tiếp (tức là một thụ tạo) có thể làm được trong cái tiến trình thể chất, nhưng là những gì nguyên nhân trực tiếp (tức là Thiên Chúa) có thể làm được.  Nói theo triết học, dù bất cứ khó khăn nào đi nữa thì sự đồng trinh lạ lùng này cũng không phải là điều không thể có.  Nếu người cha tự nhiên hành động là nhờ nguyên nhân trực tiếp (Thiên Chúa) như mọi sự đều phải làm như thế, thì chắc chắn nguyên nhân trực tiếp (Thiên Chúa) cũng có thể làm nên một hiệu quả giống như vậy mà không cần người cha tự nhiên... Thiên Chúa có thể làm bất cứ điều gì Ngài đã cho tạo vật của Ngài có khả năng để làm.” 

            Những người chỉ trích về việc lạ lùng này không thể dựa trên luận lý cho rằng Thiên Chúa không có quyền năng mà Ngài đã ban cho thụ tạo của Ngài hoặc đòi những hành động của Thiên Chúa phải đi theo phương thức hành động của loài người.  Việc Ma-ri-a có thể mang thai Đức Ki-tô mà vẫn còn đồng trinh là đơn giản;  bởi vì sự kiện phải được chấp nhận do đức tin của những ai muốn tin vào lời thiên thần: “Đối với Thiên Chúa thì không có chuyện gì mà không thể được.”

            Nhưng ngay cả khi việc Ma-ri-a mang thai Đức Ki-tô mà vẫn còn đồng trinh đã được thể hiện, thì vẫn còn có câu hỏi: “Tại sao việc ấy lại cần thiết?”

            Con Thiên Chúa có thể đến trần gian này với bản tính nhân loại và cư ngụ giữa chúng ta mà không cần phải qua những diễn tiến thụ thai, sinh ra, lớn lên, cũng như những điều khác.  Nhưng nếu làm như thế, thì chắc chắn người ta sẽ nghi ngờ về nam tính của Ngài có thực không, và do đó cái chết và sự phục sinh của Ngài có thực không.  Để tránh những nghi ngờ như thế mà Ngài đã được sinh ra giống như chúng ta được sinh ra.

            Nhưng tại sao phải cần thiết để Ma-ri-a vẫn còn đồng trinh?

            Hugh Pope viết:  “Chúng ta hãy tưởng tượng Đức Trinh Nữ như một bà mẹ bình thường có mấy người con.   Bất ngờ một trong những người con ấy tuyên bố anh ta là đấng Mê-xi-a.  Người ta sẽ dễ dàng thấy những người con khác bực bội.  Bây giờ giả sử người con đó tự xưng là Đấng Cứu độ loài người.  Anh em của anh ta tự nhiên sẽ hỏi rằng:  chính anh ta là một người bình thường, cũng cần phải được cứu độ, lại cứu độ được người khác sao.  Anh ta sẽ phải cắt nghĩa rằng anh ta là Thiên Chúa làm người.  Nhưng điều này sẽ làm cho họ hỏi vặn lại:  ‘Anh được sinh ra, nên anh là con người, vậy anh không thể tự xưng bất cứ điều gì khác được’ và họ có thể sẽ lý luận rằng được sinh ra thì anh cũng giống như mọi người khác, phải chịu chung hình phạt như A-đam và con cháu ông và do đó, chính anh ta cũng cần được cứu độ.  Vì chứng lý của họ không thể đối đáp được, nên anh ta sẽ có câu trả lời nào khác ngoài câu trả lời anh ta được sinh ra do một người nữ đồng trinh?”

            Là người mẹ nhân loại độc nhất của Đức Giê-su Ki-tô, Ma-ri-a đã đem Ngài vào thế giới như một phần tử trong gia đình thuộc dòng dõi vua Đa-vít theo lời ngôn sứ đã loan báo, như một phần tử trong nước Do Thái và như một phần tử của nhân loại thuộc A-đam.  Nếu tất cả chúng ta là anh chị em với nhau (chắc chắn chúng ta là như vậy), thì Đức Giê-su Ki-tô khi được Ma-ri-a sinh ra cũng hoàn toàn có quyền là một người trong chúng ta.  Nhưng vì sinh ra bởi một người đồng trinh, nên Đức Giê-su Ki-tô không thuộc dòng dõi A-đam.  Sự không có mặt của người cha nhân loại có nghĩa là lúc được thụ thai, Ngài không bị mang tội tổ tông và cũng không cần phải được gìn giữ để khỏi bị tội tổ tông.  Vì Ngài là Đấng cứu độ loài người khỏi tội lỗi nên dưới bất cứ ý nghĩa nào Ngài không cần được cứu độ khỏi tội lỗi.

            Nhưng một khi đã hiểu Ma-ri-a thực là mẹ đồng trinh của Thiên Chúa, thì địa vị của mẹ trong kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa qua Đức Ki-tô sẽ trở nên rõ ràng.  Ma-ri-a không phải chỉ là một khí cụ tầm thường trong việc thực hiện chương trình của Thiên Chúa, một thứ khí cụ được coi là hữu dụng đấy, nhưng rồi cũng chẳng ai còn nhìn tới và bị rơi vào quên lãng.  Thiên Chúa Toàn Năng đã không tôn vinh Ma-ri-a khi làm cho ngài trở thành mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa mà lại không muốn chúng ta cũng phải tôn kính ngài.   Không phải là không có lý khi Đức Ma-ri-a đã được liệt vào bản tóm tắt lâu đời nhất về những điều cốt yếu của Đức Tin Ki-tô giáo mà chúng ta gọi là Kinh Tin Kính của các Tông Đồ: “Chúa Giê-su Ki-tô... sinh bởi Đức Bà Ma-ri-a đồng trinh.”

            Do đó, Đức Ma-ri-a đã thực sự và đích thực là mẹ Thiên Chúa.  Có sự tôn kính loài người nào là quá mức để tôn kính Đức Ma-ri-a bởi ngài có quan hệ mật thiết như thế với chính Thiên Chúa không?   Thiên Chúa đã có thể ban tặng cho một phụ nữ nào khác một danh giá lớn lao hơn bằng cách ban cho bà ấy một người con vĩ đại hơn là người con Ngài đã ban cho Đức Ma-ri-a?  Điều ấy không thể có được!
ĐÂY LÀ MẸ CỦA ANH


Bạn có nghĩ Đức Ma-ri-a là người phụ nữ có tầm vóc quan trọng trong lịch sử nhân loại chỉ vì ngài đã có cơ may trở nên mẹ Đức Giê-su Ki-tô, một nhân vật lịch sử vĩ đại nhất trong mọi thời không?  Ngài chỉ là thế đối với thế giới hôm nay hay sao?  Hay vai trò làm Mẹ Đức Ki-tô còn có một quan hệ thực tế đối với chúng ta?

Khi đặt câu hỏi này, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề Đức Kitô là ai  (tức là Con Thiên Chúa làm người),  nhưng còn một vấn đề nữa cũng có tầm quan trọng như vậy, đó là tại sao Ngài đã làm người  (tức là Ngài thể hiện lời hứa của Thiên Chúa sẽ cứu con người khỏi tội lỗi).  Điều đó có ý nghĩa đối với chúng ta.  Đúng vậy, chúng ta có thể xét những câu hỏi và những câu trả lời này biệt lập nhau;  nhưng trong thực tế tất cả chỉ là những giai đoạn khác nhau trong một chương trình thống nhất để cứu độ chúng ta.  Nếu Đức Ma-ri-a đã có liên hệ với Đức Ki-tô để cứu độ chúng ta nhờ cái chết của Ngài trên thập giá, thì Đức Ma-ri-a cũng có một liên hệ quan trọng đối với bạn và tôi trong thế giới hôm nay.

Người Ki-tô hữu có đúng không khi họ tin và sùng kính Đức Ma-ri-a – một phụ nữ khiêm tốn và đạo đức Do Thái –  là mẹ của Đức Giê-su và chỉ có thế thôi?  Tân Ước ghi lại việc ngài đi viếng bà Elizabeth, việc sinh hạ Đức Giêsu trong thành Bethlehem, vai trò của ngài trong phép lạ nước hóa rượu trong tiệc cưới ở thành Ca-na, sự hiện diện của ngài dưới chân Thánh giá khi Đức Ki-tô sinh thì, và với các môn đệ trong phòng Tiệc ly hôm lễ Ngũ tuần.  Câu hỏi được đặt ra là tất cả những sự việc trên có liên quan gì đến việc cứu rỗi chúng ta?  Thánh Phao-lô đã chẳng nói chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Trung Gian giữa con người và Thiên Chúa đó sao?  Và Thánh Phê-rô đã chẳng tuyên xưng rằng chính bởi tên một người – Giê-su Ki-tô – mà chúng ta được cứu độ sao?  Và trong vài trường hợp chẳng phải chính Đức Ki-tô đã trách Mẹ Ma-ri-a xen vào công việc của Ngài khi Ngài phải lo công việc của Cha Ngài sao?  Bởi thế chúng ta có nên để Đức Mẹ lui vào hậu trường không, kẻo khi tôn vinh Mẹ, chúng ta sẽ làm giảm đi việc tôn vinh phải dành cho Đức Ki-tô?

Những câu hỏi này có thể sẽ phản ảnh thái độ của một số độc giả và chúng tôi muốn nhắc đến ở đây để chúng ta cẩn thận trước quan điểm của họ.  Theo Công giáo thì quan điểm này sai lầm.  

Thái độ này không phải là thái độ có tính cách lịch sử của Ki-tô hữu trong Giáo Hội Công giáo từ thuở sơ khai đến nay.  Thái độ ấy không dựa trên những điều Kinh Thánh nói chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Đức Ma-ri-a, nhưng thái độ phải có này đã được giải thích bởi lời sinh động của Giáo Hội từ thời các Tông đồ rồi.

Giáo Hội Giải Thích Thánh Kinh

Người Công giáo học biết được những gì về Đức Ma-ri-a thì không phải là do những gì Giáo Hội dạy biệt lập với căn bản Kinh Thánh, nhưng do những gì Giáo Hội dạy phải hiểu theo ý nghĩa đầy đủ về những điều Kinh Thánh đã nói về Đức Ma-ri-a.   

Khi chấp thuận làm mẹ Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a đã hoàn toàn tự do liên kết chính mình với Con Thiên Chúa trong công cuộc cứu rỗi nhân loại – bao gồm cả những ai đang đọc những dòng chữ này. 

Đức Ki-tô phải là Đấng Cứu độ nhân loại, Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban cho chúng nhân và là Vua của nhân loại được cứu chuộc.  Do đó Đức Ma-ri-a cũng đã được mời gọi liên kết chính mình với việc hoàn thành công cuộc Con Thiên Chúa xuống thế làm người, tức là công  cuộc cứu độ tội nhân, với sứ mệnh của Đấng Mê-xi-a, và với việc tạo dựng vương quốc đã được Sứ thần Gáp-ri-en tiên báo.

Khi thiên sứ truyền tin cho Đức Ma-ri-a, công cuộc cứu rỗi của Đức Ki-tô đã được sắp đặt và điều này liên hệ đến toàn thể nhân loại.  Đừng nghĩ rằng việc Đức Ma-ri-a chấp thuận làm mẹ Đức Ki-tô chỉ có nghĩa như là mẹ của một cá nhân riêng tư, hoặc Mẹ không có một liên hệ nào với Đức Ki-tô trong tư cách là người của công chúng và là Đấng Cứu thế. 

Bởi chính việc Đức Ma-ri-a được tự do cộng tác với Thiên Chúa khi Người sai Con mình đến, sinh hạ bởi người phụ nữ, thì Mẹ đã dự phần vào việc hoàn thành mục đích của Chúa Con khi đến thế gian.  Qua việc chấp thuận trao tặng máu thịt mình cho Con Thiên Chúa và sinh ra Ngài nơi gian trần, Mẹ đã chẳng trao tặng Đấng Cứu Thế cho nhân loại theo cách riêng của Mẹ hay sao?  Khi ban tặng cho chúng ta Con Một Người làm Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã chẳng ban tặng qua Đức Ma-ri-a hay sao?

Nhưng có thực tất cả những điều này chỉ gặp thấy trong một đoạn ngắn ở chương thứ nhất Tin Mừng Lu-ca và chẳng được nhắc đến ở đâu khác trong Kinh Thánh không?  Không phải vậy!  Chúng ta hãy bắt đầu với thánh Phaolô.  Ngoài việc nói về Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa sinh ra bởi một phụ nữ, Phao-lô còn gọi Ngài là “A-đam thứ hai” (Cr 15:45-47),  và cách gọi này bao hàm rất nhiều ý nghĩa, không những về Đức Giê-su Ki-tô, nhưng còn về Đức Ma-ri-a nữa.

Khi nói về Đức Giêsu như “A-đam thứ hai”, thánh Phao-lô đã khai mở cả một chân trời mới về Đấng Cứu Thế và công việc của Người.  Ngài đã trình bày những điều được mặc khải cho ngài về chương trình cứu độ của Thiên Chúa.  Theo thánh Phao-lô, Đức Ki-tô là A-đam thứ hai đã phục hồi cho nhân loại những gì nhân loại đã đánh mất do A-đam thứ nhất là tổ tiên loài người.  “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15:22) .

Điểm tương đồng giữa A-đam và Đức Ki-tô, nói chung là ở mối liên hệ của cả hai đối với nhân loại, là tổ phụ và là Đấng Cứu Thế của nhân loại.  Sự khác biệt giữa hai vị là ở cách xử lý và hậu quả gây nên.  Việc bất phục tùng của người thứ nhất làm mất đi tình bằng hữu với Thiên Chúa và đem lại sự chết cho mọi người.  Còn sự tuân phục của người thứ hai phục hồi tình bằng hữu ấy và đem lại sự sống thiêng liêng làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Bà E-và và Đức Ma-ri-a

So sánh của thánh Phao-lô giữa Đức Ki-tô với A-đam, dựa trên câu truyện sách Sáng Thế nói về việc nguyên tổ sa ngã, đòi phải có sự so sánh giữa người phụ nữ đã được tiền định là kẻ thù của Xa-tan và là đấng sẽ sinh hạ Đấng Cứu Thế, với E-và là người đã cùng liên kết với A-đam trong việc sa ngã.

Những sách chú giải của Công giáo về Kinh Thánh, kể cả những tác phẩm được viết do những tác giả thuộc vài ba thế hệ sau Đức Giê-su và các Thánh Tông đồ, đã nhắc chúng ta hãy chú ý đến điểm tương đồng đáng kể giữa vai trò của E-và, người phụ nữ trong câu truyện tổ tông sa ngã và mất tình bằng hữu với Thiên Chúa do ông A-đam, với vai trò của Đức Ma-ri-a, người phụ nữ trong việc phục hồi tình bằng hữu cho nhân loại.

Thánh Giustinô, sống khoảng năm 110 - 165, đã viết: “Bởi E-và, khi còn là một trinh nữ và chưa bị nhơ uế, nghe lời con rắn nên đã đưa tới sự bất phục tùng và sự chết;  Trinh Nữ Ma-ri-a, với đức tin và hân hoan khi nghe thiên sứ loan báo tin mừng là Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa, liền trả lời xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.  Và do đó qua bà đã sinh ra Đấng mà chúng ta đã chứng tỏ nhiều đoạn Kinh Thánh đã nói về Ngài, cũng là Đấng Thiên Chúa đã nhờ Ngài mà loại bỏ con rắn cùng với đám thiên thần và những kẻ theo nó, còn Ngài thì trái lại, đã đem lại giải thoát khỏi cái chết cho những ai thống hối về những điều dữ mình làm và tin vào Ngài”  (Dialogue with Trypho, 100).

Điều rất quan trọng là nếu chúng ta hiểu theo ý nghĩa đầy đủ và chính xác về điểm tương đồng Kinh Thánh cho là có giữa việc nguyên tổ sa ngã và việc Đức Giê-su Ki-tô phục hồi, thì chúng ta cũng phải hiểu rằng vai trò của Đức Ma-ri-a trong việc sửa chữa đã được Thiên Chúa phác họa cũng sẽ tương đồng với vai trò của người phụ nữ đầu tiên trong việc sa ngã của tổ tông.

Chương 3 sách Sáng Thế cho thấy E-và giữ vai trò trọng yếu trong việc loài người sa ngã.  Đích thực số phận của nhân loại nằm trong tay A-đam (Rm 5:12).  Chỉ mình ông đại diện cho chúng ta nên chính ông mới có thể ngăn ngừa hoặc gây nên việc sa ngã.  Nhưng E-và cũng đã có chỗ đứng của mình trong việc này, bởi A-đam đã gọi bà là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20) là tên gọi không những diễn tả một sự thật mà còn cho thấy phẩm giá của bà.  Vì bà có liên hệ chung với toàn thể nhân loại, nên bà cũng giữ vai trò riêng của mình trong sự thử thách và sa ngã do A-đam.  “Người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ” (1 Tm 2:14).  Bà đã nghe lời xúi giục của tên cám dỗ và đã cộng tác vào việc phạm tội, không phải như người không có trách nhiệm, nhưng là cách rất liên hệ và đích thân.  Qua phương cách của bà, bà đã mang tội lụy đến cho thế gian và có trách nhiệm về án phạt thế gian phải chịu.

Trong biến cố kinh khủng này có ba nhân vật:  thần dữ dưới hình dạng con rắn, người phụ nữ đầu tiên và người nam đầu tiên.  Khi án phạt được tuyên phán thì một biến cố sẽ xảy ra trong tương lai xa cũng đã được công bố, một biến cố mà cả ba thành phần (con rắn, người nữ và người nam) đều là dấu hiệu tiên báo, đó là dòng giống.  Nhưng biến cố đó phải là A-đam thứ hai và E-và thứ hai, đấng sẽ là mẹ của A-đam mới.  Thiên Chúa hứa đặt mối thù giữa con rắn và bà, giữa dòng giống con rắn và dòng giống bà.  Bà và dòng giống bà sẽ toàn thắng con rắn.  Dòng giống bà chính là Đức Giê-su Ki-tô, A-đam mới;  và Đức Ma-ri-a mẹ Ngài chính là E-và mới.

Quan Điểm Của Kitô Hữu Tiên Khởi

Thánh I-rê-nê, một học giả Ki-tô giáo sinh vào khoảng năm 130 sau công nguyên và đã được dạy dỗ về đức tin Ki-tô giáo do một môn đệ của thánh Gio-an Tông đồ, đã ghi lại những gì Ki-tô hữu sơ khai hiểu về vai trò của Đức Ma-ri-a trong công cuộc cứu chuộc, so sánh với bà E-và trong việc sa ngã của con người.

I-rê-nê quen biết với những người thân cận hai thánh Phê-rô, Phao-lô và những người “còn thấy lời giảng của các thánh Tông đồ vẫn còn vang vọng bên tai.”  Ngài làm chứng rằng người ta đã dạy ngài cùng một sự thật mà Giáo Hội đã nhận được từ các thánh Tông đồ, và do đó “một đức tin và cũng chính là đức tin ban sự sống đã được bảo tồn trong Giáo hội và được truyền lại nguyên vẹn từ thời các thánh Tông đồ cho đến ngày nay” (Against Heresies 3,3).

I-rê-nê viết:  “E-và đã bị dụ dỗ bởi lời của một thiên thần nên xa lánh Thiên Chúa vì lỗi phạm lời Ngài, còn Đức Ma-ri-a đã lãnh nhận tin mừng do lời sứ thần truyền nên mang thai Con Thiên Chúa trong lòng vì Mẹ vâng lời Ngài.  Một người phụ nữ thì không vâng phục, còn người phụ nữ kia thì được dẫn dắt để vâng phục Ngài;  trinh nữ E-và, trinh nữ Ma-ri-a, vì cả hai trở thành người thay mặt cho nhân loại, cho nên bởi một trinh nữ mà nhân loại đã phải chết thì cũng bởi một trinh nữ mà nhân loại được cứu, để cho có sự thăng bằng, tức là thăng bằng giữa một trinh nữ bất phục tùng và một trinh nữ vâng phục” (Against Heresis 3, 19)

Vai Trò của Đức Ma-ri-a và Evà

Chúng ta đã nói E-và giữ vai trò cốt yếu trong tội nguyên tổ.  Chúng ta cần xét kỹ lưỡng hơn về việc bà đã can dự như thế nào.

Tình trạng tội lỗi di truyền cho nhân loại chính là do trách nhiệm đơn phương của A-đam.  Chính ông, chứ không phải bà E-và, là đầu của gia đình nhân loại.  Giả như  E-và đã sa ngã một mình, thì con cháu họ đã không phải gánh chịu hậu quả. Giả như bà vẫn trung thành, trong khi chỉ có một mình ông A-đam phạm tội, thì tình trạng tội lỗi cũng vẫn đổ trên mọi người.

Như sự việc đã xảy ra, A-đam đã bị xúi giục phạm tội bởi lời nài nỉ của E-và.  Do lời thuyết phục nên bà đã đem lại sự việc đáng tiếc, và như thế, việc này cũng liên can đến bà.  Vậy thực ra A-đam chính là tác giả của sự hư mất gây ra nguyên bởi tội của ông, tuy nhiên vì sự cộng tác của bà, mọi sự đều có thể quy tại đề nghị và xúi giục của bà.

Giờ đây chúng ta hãy tìm hiểu về vai trò của Đức Ma-ri-a trong chương trình cứu rỗi như đã thực sự xảy ra.

Đức Giê-su Ki-tô là tác giả duy nhất của chương trình cứu chuộc, và cái chết cứu độ của Ngài đã đủ để đền bù tội lỗi cả nhân loại.  Cái chết ấy tự nó đã trọn vẹn, đầy đủ và lại còn phong phú để làm cho chúng ta được nên công chính trước mặt Thiên Chúa, được thánh hóa và được cứu độ.  Giả như Ngài đã đến thế gian mà không cần bất cứ ai liên hệ với Ngài, thì việc cứu rỗi của chúng ta cũng vẫn được hoàn tất.  Giả như Ngài đã không tự hiến làm hy tế cho chúng ta, thì dù tất cả những gì Đức Ma-ri-a hoặc bất cứ một ai khác làm cũng không đủ để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa được.  

Do đó, việc Mẹ Ma-ri-a liên kết với Đức Giê-su trong chương trình cứu rỗi như đã thực sự xảy ra cũng không thêm gì cho sự hy sinh của Ngài.  Chúng ta được trở thành bạn hữu của Thiên Chúa chỉ là do công nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô mà thôi.  Đây chính là điều Giáo Hội Công giáo luôn luôn dạy và tin như thế.

Nhưng Đức Ma-ri-a đã tham gia vào công cuộc cứu độ và Kinh Thánh cho chúng ta biết những dữ kiện ấy.  Bà E-và thứ nhất dự phần vào việc sa ngã đã làm hư hỏng con người bằng cách cố tình xúi giục ông A-đam phạm tội. Bà E-và thứ hai, Đức Ma-ri-a, đã cứu chúng ta qua việc dự phần vào công cuộc cứu độ khi chấp nhận làm mẹ Con Thiên Chúa, Đấng đã đến cứu dân Người khỏi tội lỗi.

Đức Giê-su Ki-tô vì là Đấng Cứu Thế duy nhất, Đấng Trung Gian giữa con người và Thiên Chúa, đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa.  Tuy nhiên,  Đức Ma-ri-a đã liên kết với Đấng Trung Gian trong kế hoạch của Thiên Chúa và thực thi phận sự của mình, một phận sự cốt yếu, giống hệt như bà E-và đã dự phần vào việc sa ngã của con người.

Sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a

Nhưng sao ta lại có thể nói vai trò của Đức Maria là thiết yếu?  Hãy đọc chương đầu sách Tin Mừng Lu-ca, bạn sẽ thấy Thiên thần Gáp-ri-en đã không đến gặp Đức Ma-ri-a chỉ để loan báo những gì sẽ xảy ra, mà ngài đến để xin sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a.  Do đó trong chương trình của Thiên Chúa, sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a thật cần thiết.  Nếu không phải là cần thiết thì tại sao lại hỏi ý kiến?

Tại sao lại phải hỏi sự ưng thuận của Mẹ?  Một trong những lý do là sự ưng thuận của Mẹ làm cho việc Sửa chữa tương đồng với việc Sa ngã.  Bởi tính kiêu căng bất phục tùng, A-đam đã hủy hoại toàn thể nhân loại;  do đó Đức Giê-su Ki-tô, A-đam thứ hai, do sự vâng phục khiêm nhượng của Ngài, đã cứu nhân loại.  Trong khi E-và, bởi lời xúi giục, đã cộng tác với việc bất tuân của A-đam, thì Đức Ma-ri-a, E-và thứ hai, qua lời ưng thuận, đã cộng tác với công cuộc cứu chuộc Đức Giê-su đã thực hiện được trên thập giá.  Người phụ nữ thứ nhất đã gây nên sự sa ngã bởi nghe lời xúi giục của thiên thần phản loạn, còn E-và thứ hai đã chấp nhận đề nghị về công cuộc cứu chuộc được trình bày do vị thiên thần trung thành đã được Thiên Chúa sai đến.  

Thiên Chúa với tình yêu và sự tốt lành khôn tả, đã phác họa công cuộc cứu chuộc và phương thức thực hiện.  Chúng ta nhận rõ mình hoàn toàn mắc nợ lòng yêu thương của Người. Nhưng chúng ta cũng thấy là qua kế hoạch yêu thương, Người Con Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô, đã làm người và hy sinh chính mình cho chúng ta trên thập giá.  Cho nên sẽ không làm suy giảm thái độ biết ơn của chúng ta đối với Cha trên trời chút nào nếu chúng ta biết mình hoàn toàn mắc nợ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Thế.  Có một điều cũng rất rõ ràng là sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a đã được hỏi ý và được trả lời để cho Con Thiên Chúa có thể làm người và cứu chúng ta khỏi tội lỗi.  Do đó, cũng không làm suy giảm thái độ biết ơn của chúng ta đối với Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa Cha chút nào nếu  chúng ta nhận thức mình phải mắc nợ Đức Ma-ri-a.  

Lòng biết ơn của chúng ta đối với Thiên Chúa, Cha chúng ta, không bị giảm bớt nhưng ngược lại còn được tăng thêm do lòng biết ơn của chúng ta đối với Con của Ngài.  Cũng thế, lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa Con cũng không bị giảm bớt nhưng được tăng thêm do lòng biết ơn của chúng ta đối với Đức Ma-ri-a.  Những ai nhiệt tâm tôn kính và tỏ lòng biết ơn sâu xa nhất đối với Mẹ Ma-ri-a thì cũng tỏ lòng tôn kính và cảm tạ, cùng với lòng yêu mến nồng nàn nhất đối với Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Thế.

Đức Ma-ri-a  –  Mẹ chúng ta

Vậy Đức Ma-ri-a có liên hệ gì với chúng ta?  Giáo hội Công giáo trả lời:   chắc chắn có.  Và vẫn cùng một câu trả lời ấy, ngày nay cũng như ở thế kỷ thứ tư:  “ E-và được gọi là mẹ của chúng sinh…  sau việc sa ngã bà đã được gọi bằng danh hiệu này.  Thật vậy… toàn thể nhân loại đã được sinh ra từ Evà;  nhưng thực sự chính từ Đức Ma-ri-a mà Sự Sống đã được sinh ra cho nhân loại.  Như thế khi sinh ra Đấng Hằng Sống, Đức Ma-ri-a đã trở thành mẹ của mọi kẻ sống” (Thánh Epiphanius, Against Eighty Heresies, 78, 9) .

Các Kitô hữu đã nói lên mối liên hệ giữa Đức Maria với chúng ta qua việc tôn xưng ngài với tước hiệu “Mẹ chúng ta.”  Dĩ nhiên, điều này không diễn tả thiên chức làm mẹ theo nghĩa thông thường, nhưng là một liên hệ thiêng liêng.  Đúng y như thánh Phao-lô đã nói với các tín hữu Cô-rin-tô: “Trong Đức Ki-tô, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1 Cr 4:15), Đức Ma-ri-a cũng có thể nói với toàn thể nhân loại:  “Trong Đức Giê-su Ki-tô, do việc ưng thuận cộng tác vào chương trình cứu rỗi chúng con, mẹ đã sinh ra chúng con.”  Ngài đã hợp tác vào việc tái sinh chúng ta bằng cách ban cho chúng ta Đấng Tạo Hóa.  

Trên đồi Can-vê, khi nói với Mẹ Ma-ri-a: “Đây là con của Bà,” và với thánh Gio-an:  “Đây là Mẹ của anh,” thì Đức Giê-su Ki-tô đã công bố sự thật nói trên.  Ki-tô hữu đã luôn luôn coi thánh Gio-an như thay mặt cho tất cả những ai được cứu chuộc muốn nhìn lên Đức Ma-ri-a như là “mẹ” của họ.  Đây cũng là nguồn gốc của việc tôn kính Đức Ma-ri-a.
VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Ma-ri-a, Mẹ Đức Giê-su có được cứu khỏi tội không? Giáo Hội Công giáo trả lời: Thưa có.  Câu trả lời này gây ngạc nhiên cho những ai cứ tưởng người Công giáo tin rằng Đức Ma-ri-a đã không được cứu chuộc.  Chẳng phải người Công giáo luôn tin rằng Đức Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội và ngài không có tội đấy ư?  Điều này chẳng nghịch lại chính lời của Đức Ma-ri-a: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc1:47) hay sao?

Theo đức tin Công giáo, Ma-ri-a, cũng như bất cứ trẻ nhỏ nào thuộc dòng dõi A-đam, đều cần được cứu độ và đã được cứu độ.  Giống như tất cả chúng ta, Mẹ đã có thể nhận được ân sủng, sự thánh thiện, và ơn cứu chuộc chỉ do công nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô.  Thực vậy, đối với ngài cũng như đối với chúng ta, chẳng có sự cứu độ nào ngoài sự cứu độ trong Đức Giê-su Ki-tô và chẳng có danh nào ngoài danh Đức Giê-su nhờ đó chúng ta được cứu chuộc.

Là E-và Mới liên kết với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc, Đức Ma-ri-a cũng cần đến những gì ơn cứu chuộc mang lại cho nhân loại, nghĩa là cần đến những công nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô.  Bởi đó chẳng có gì nghịch lý khi Đức Ma-ri-a vừa hợp tác với chương trình cứu độ, đồng thời cũng vừa được hưởng nhờ ơn cứu độ ấy.

Chúng ta có thể thấy một điểm tương đồng như vậy trong việc tổ tông loài người sa ngã và điểm ấy chỉ là đặc nét của việc giống nhau giữa sự Sa ngã và việc Sửa chữa.

Hậu quả của tội A-đam phạm không những làm cho chính ông và con cháu ông mất đi tình trạng vô tội, mà còn làm cho E-và cũng mất tình trạng vô tội nữa, vì bà xúi giục nên ông đã phạm tội.  Dĩ nhiên, bà đã lỗi phạm nghịch lại Thiên Chúa, nhưng tội của bà có thể chỉ ảnh hưởng đến cá nhân bà.  Còn A-đam dù một mình ông lỗi phạm thì cũng có thể ảnh hưởng đến mọi người bởi ông là đầu.  Vậy E-và đã dụ dỗ A-đam phạm tội và tội của ông đã làm cho bà mất đi tình trạng vô tội cùng tất cả con cháu bà sau này.

Hiệu quả việc cứu chuộc của Đức Giê-su Ki-tô không chỉ là ơn cứu độ cho nhân loại mà cũng là ơn cứu độ cho chính Đức Ma-ri-a.  Qua sự ưng thuận, Đức Ma-ri-a đã giúp cho ơn cứu độ có thể đến với chúng ta và chính Mẹ cũng được hưởng ích lợi của ơn ấy như mọi người và lại còn đầy đủ hơn mọi người nữa.  

Chúng ta hãy trình bày điểm quan trọng này một cách khác.  A-đam có thể nói với E-và: “Bởi chính lời dụ dỗ của bà mà tôi đã phạm tội;” còn E-và cũng có thể nói thật với A-đam:  “Bởi tội lỗi của ông mà tôi đã mất đi tình trạng vô tội khi tôi được tạo dựng.”  Cũng thế, Đức Giê-su có thể nói với Mẹ Ma-ri-a: “Do sự ưng thuận của mẹ, mẹ đã giúp cho Con có thể cứu chuộc thế gian;” và Mẹ có thể nói với Ngài:  “Mẹ cần đến sự hy sinh nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Con cho sự cứu rỗi của chính mẹ.” 

Vô Nhiễm Nguyên Tội

Đối với việc cứu chuộc nhân loại, vai trò của Đức Ma-ri-a quả thật là độc đáo, cho nên không có gì là ngạc nhiên khi thấy việc Mẹ được cứu chuộc cũng thật độc đáo.  Không phải Mẹ đã được giải thoát khỏi tội ngài đã phạm, cũng chẳng phải Mẹ đã được tẩy sạch khỏi tội ngài đã bị lây nhiễm; nhưng là Mẹ đã được gìn giữ cho khỏi tội, Mẹ đã được ngăn ngừa khỏi sự lây nhiễm của tội nguyên tổ ngay từ giây phút đầu tiên khi Mẹ được hình thành trong bụng mẹ mình.  Đức Ma-ri-a đã được thụ thai tinh tuyền ngay trong bụng mẹ – không vướng mắc tội lỗi và được tràn đầy ân sủng của Đức Ki-tô nhờ công nghiệp đã được dự liệu do cuộc khổ nạn và sự chết của Ngài.

Việc gìn giữ Đức Ma-ri-a khỏi bị di truyền tội tổ tông thường được gọi là Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Như rất nhiều người đã hiểu sai, Vô Nhiễm Nguyên Tội không đồng nghĩa với  việc Mẹ thụ thai Đức Giê-su mà vẫn còn đồng trinh, và cũng không ràng buộc với việc Đức Giê-su không có một người cha phàm trần nhưng đã được thụ thai cách lạ lùng trong dạ Mẹ Ma-ri-a.  Vô Nhiễm Nguyên Tội cũng không có nghĩa là Đức Ma-ri-a đã được thụ thai cách mầu nhiệm trong lòng mẹ mà không cần đến quan hệ vợ chồng với người nam.  Không, không  có nghĩa như vậy.  Đối với phụ mẫu của Đức Ma-ri-a thì Mẹ đã được thụ thai theo cách sinh sản tự nhiên của con người.  Được thụ thai theo cách thức tự nhiên, nên đúng ra Đức Ma-ri-a sẽ được tạo thành mà không được ân sủng của Thiên Chúa và cũng sẽ phải chịu mất tình trạng vô tội như tất cả con cháu A-đam sinh ra theo cách tự nhiên của loài người.  Nhưng Thiên Chúa đã cứu Mẹ khỏi những điều ấy là vì phận vụ của Mẹ trong kế hoạch của Người.

Đức tin của Giáo Hội Công giáo trình bày ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội một cách đơn giản như sau:  Ngay từ lúc đầu tiên khi được thụ thai, bởi ơn đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng, nhờ công nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu độ chúng ta, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được gìn giữ cho khỏi mọi vết nhơ của tội nguyên tổ.


Việc Đức Ma-ri-a không dính một vết nhơ nào của tội nguyên tổ là yếu tố quan trọng của ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Tất cả con cháu A-đam đều mất đi tình trạng vô tội thuở ban đầu của tổ tông mà lẽ ra họ sẽ được nếu A-đam vẫn trung thành với Thiên Chúa.  Sự thiếu vắng ân sủng và vô tội này được hình dung như là “vết nhơ”, để nói lên sự thiếu vắng hào quang ân sủng Thiên Chúa mà linh hồn con người bị mất khi kết hợp với thân xác trong bụng mẹ.  Vắng bóng ân sủng Thiên Chúa là vắng bóng sự thánh thiện và là tình trạng làm mất lòng Chúa.  Tình trạng thiếu vắng này thông thường được sửa chữa lại qua việc tái sinh thiêng liêng nhờ Đức Ki-tô qua bí tích Rửa tội.  Tuy nhiên Đức Ma-ri-a đã không bao giờ mang tì vết này, mà ngay từ lúc thân xác và linh hồn ngài kết hợp với nhau thì Ngài đã ở trong tình trạng vô tội và tình bạn của Thiên Chúa.

Chiến thắng đã được hứa ban 

Ngay khi Thiên Chúa hứa sẽ ban ơn cứu rỗi trước sự hiện diện của Xa-tan và hai người tội lỗi là A-đam với E-và, chúng ta đã thấy dấu chỉ đặc ân của Đức Ma-ri-a. “Ta sẽ gây mối thù giữa mi (Xa-tan qua hình ảnh con rắn) và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống (Đức Giê-su Ki-tô, Đấng sẽ đạp dập đầu con rắn) người ấy” (St 3:15).  Các Kitô hữu đã luôn nhìn thấy trong lời loan báo này một lời hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế trong tương lai cùng với chiến thắng của Người trên tội lỗi và ma quỷ.  Bởi vì chính Đức Giê-su là dòng giống của người đàn bà đang đối đầu với dòng dõi của con rắn. 

Tuy nhiên, mục đích Đức Giê-su là dòng giống của người đàn bà là để chống lại Xa-tan, chứ không phải để nói lên một liên hệ nào đó với E-và, bởi vì chúng ta không thấy ở nơi bà E-và một sự chống lại Xa-tan được hứa ban.  Giống như A-đam, bà E-và cũng chỉ là nạn nhân của con rắn mà thôi.  Nhưng chỉ có nơi Đức Ma-ri-a liên kết với Con mình để chống lại con rắn, chúng ta mới thấy có mối thù như vậy.

Cũng thế, người đàn bà và dòng giống của bà sẽ toàn thắng con rắn, đầu nó sẽõ bị đạp dập.  Nếu có lúc nào đó Đức Ma-ri-a lại bị khuất phục do tội lỗi và ma quỷ, thì chiến thắng hoàn toàn và khôn lường của Người Con và mẹ Ngài, đấng liên kết với Ngài trong lời hứa chiến thắng, sẽ không thể thực hiện được.

Giả như có tội lỗi nơi Đức Ma-ri-a, thì tội lỗi ấy sẽ chống lại Thiên Chúa chứ không phải chống lại Xa-tan.  Nhưng trong lời hứa, Thiên Chúa đã đặt sự thù nghịch giữa người đàn bà và Xa-tan, và nhờ dòng giống người đàn bà, Ngài sẽ ban sự toàn thắng trên Xa-tan.  Cho nên Thiên Chúa đã làm tròn điều hứa này bằng cách gìn giữ Đức Ma-ri-a khỏi tội nguyên tổ.

Rõ ràng qua các tài liệu được lưu trữ đến nay, người ta thấy các Ki-tô hữu thuở ban đầu đã hiểu tường tận ý nghĩa lời hứa này của Thiên Chúa.  Những ai cho rằng người Công Giáo ở những thế kỷ gần đây đã thêm vào giáo huấn nguyên thủy của Ki-tô giáo những giáo điều mới về sự thánh thiện của Đức Ma-ri-a nói riêng và mọi đặc ân chúng ta gán cho ngài nói chung, thì họ cần phải đọc những gì các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu đã dạy.

Sự tôn kính của Kitô hữu sơ khai

Nhiều đoạn sách quan trọng trong các tác phẩm của họ đã được chuyển dịch ra Anh ngữ và đóng thành bộ như quyển Đức Trinh Nữ  qua những tác phẩm của các Giáo Phụ thuộc sáu thế kỷ đầu của tác giả Thomas Livius, do nhà xuất bản Burns & Oates.  Trong lời mở đầu, học giả đã viết:  “Cố gắng không thiên vị, tôi xác tín rõ ràng rằng… các tác giả thuộc sáu thế kỷ đầu đã đồng thanh tán dương Đức Bà như ngài vẫn được tán dương do những người Công giáo ở các thời đại sau này;  và tôi cũng xác tín rằng tất cả những gì Giáo Hội ở mọi thời đại đã định tín và xác nhận về những đặc ân và vinh dự Mẹ đáng lãnh nhận… cũng đều thấy có nền tảng, nguyên tắc hoặc manh nha nơi những tác phẩm của những tác giả ấy (tức là những tác phẩm tôi góp lại ở đây)… Hơn nữa, rõ ràng qua những đoạn mà tôi trích dẫn… cho thấy nhiều Giáo phụ đã trình bày cách minh nhiên và sâu sắc trong các bài ca tụng Mẹ Thiên Chúa, và các ngài đã chẳng dành lại một khoảng thật nhỏ nào cho những người đi sau, đến nỗi họ chỉ còn biết lập lại chính các lời của các giáo phụ và làm vang vọng lại những lời tán tụng này mà thôi.”

Vậy những Ki-tô hữu đầu tiên đã nói gì về sự thánh thiện của Đức Ma-ri-a?  Họ nói:  “Những người khác có thể thánh thiện, còn Đức Ma-ri-a thì được thánh thiện toàn vẹn.”  “Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên trinh nữ thứ nhất (E-và) không có tội, nay đã dựng nên trinh nữ thứ hai (Đức Ma-ri-a) không một khuyết điểm.”  Nói về sự thánh thiện của Mẹ, họ đã sử dụng những tĩnh từ chỉ sự thánh thiện như “nguyên vẹn”, “không ô uế”, “không nhiễm mắc”, “không hư nát”, “vô tội”.  Mẹ không chỉ vô nhiễm mà là “hoàn toàn vô nhiễm.” – “hoàn toàn không vướng tội”, “hoàn toàn không lây nhiễm tội”, “không bị tội lỗi đụng chạm tới”.  Vậy thì việc người Công giáo hôm nay tin rằng Đức Ma-ri-a đã được gìn giữ khỏi mọi bợn nhơ của tội lỗi, kể cả tội nguyện tổ, có thêm được điều gì mới vào những gì đã được nói trong suốt lịch sử Ki-tô giáo không?

Nếu bạn thắc mắc lý do tại sao việc không vướng mắc tội lỗi ngay lúc ban đầu cuộc đời của Mẹ quan trọng như thế nào và tại sao các Ki-tô hữu luôn tôn vinh Mẹ là đấng vô nhiễm và không tỳ vết, thì lý do ấy là Mẹ phải được xứng hợp để làm mẹ của Đấng Cứu Thế, xứng đáng để hợp tác với Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết nhất.  Nơi Đức Ma-ri-a không có một sự hổ thẹn tội lỗi nào có thể ảnh hưởng đến Con của ngài.  Thân xác mà Đấng Thánh đã nhận từ người làm mẹ của Ngài phải là thân xác của một người không bao giờ là kẻ tội lỗi  theo bất cứ ý nghĩa nào.

Sự vắng bóng của tội lỗi nơi Đức Ma-ri-a đồng nghĩa với sự thánh thiện – sự thánh thiện ngày càng phát huy nơi Ngài.  Vào thời điểm đã định để sứ thần Thiên Chúa đến viếng thăm Mẹ, sứ thần đã có thể chào Mẹ là “Đấng đầy ân sủng” và “được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ.” Chưa bao giờ một thiên sứ chào người nào với những lời lẽ như thế.  Chắn chắn điều đó phải có lý do thích hợp.

Những lý do về sự thánh thiện của Đức Ma-ri-a

Có hai điểm quan trọng chúng ta cần nhớ khi tìm hiểu những lý do này.  Trước hết, Thiên Chúa không làm điều gì một cách ngẫu nhiên hoặc theo hứng.  Thiên Chúa Hằng Hữu không làm như thế.  Điều gì Người làm nơi trần thế, Người đã hoạch định từ ban đầu.  Người đã chẳng tự dưng sai sứ thần đến với một thiếu nữ Do-thái dễ thương ở một thị trấn nhỏ miền Giu-đê để chọn làm mẹ Đấng Mê-xi-a, sau một thoáng nhìn mọi thiếu nữ khác rồi quyết định tức thời Ma-ri-a sẽ được chọn.  Đức Ma-ri-a đã ở trong trí của Thiên Chúa từ thuở ban đầu. Ngài sinh ra là để làm Mẹ Thiên Chúa.

Điểm thứ hai là khi Thiên Chúa chọn ai làm công việc gì, thì Người ban cho họ mọi sự để làm việc đó cho nên.  Thí dụ thánh Phao-lô đã nói: “Thiên Chúa ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới” (2 Cr 3:6).  Nói cách khác, nhờ ân sủng Người, Người đã cho chúng ta khả năng để chu toàn điều Người mời gọi chúng ta làm.  Vậy, khi chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ Thiên Chúa, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ ân sủng, phúc lành, và sự thánh thiện để làm cho Mẹ nên xứng đáng với địa vị đó.  Mẹ xứng hợp làm Mẹ Thiên Chúa và tiếp nhận chính Thiên Chúa vào cung lòng mình.
ĐỨC MA-RI-A LINH HỒN VÀ XÁC LÊN TRỜI


Trong những trang đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy A-đam đã được Đấng Tạo Thành cảnh cáo không được ăn trái cây biết điều lành điều dữ: “Bởi ngày nào ngươi ăn trái này, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2:17).  Hẳn ông đã rõ sự chết sẽ là hình phạt cho việc phản nghịch giới răn Thiên Chúa.  Còn sự vâng phục sẽ đem lại bất tử thể xác.


Ta thấy điều này trong nhiều đoạn khác.  Sách Khôn Ngoan viết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1:13).  “Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt… nhưng chính vì quỉ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:23-24).  Thánh Phao-lô cũng nói:  “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết;  như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5:12).

Như thế chúng ta thấy hình phạt đã giáng xuống trên nguyên tổ:  “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (Kn 3:19).  Sự chết và sự tan rữa thân xác con người trong mồ là hình phạt vì tội lỗi mà con người phải chịu cùng với tội.

Tất cả những điều này áp dụng cho Đức Ma-ri-a như thế nào?  Nếu bởi đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã được giữ gìn khỏi tội tổ tông và hậu quả của nó, thì chúng ta chẳng nên coi nguyên lý “ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất” đã không áp dụng cho Mẹ hay sao?

Thân xác Đức Maria đã không bị mục nát trong mồ nhưng đã được Thiên Chúa cho tái hợp với linh hồn Mẹ sau khi chết, và như thế Mẹ đã được về hưởng vinh phúc muôn đời trên trời.  Đó là giáo huấn của Giáo Hội Công giáo mà chúng ta thường gọi là Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời.

Nhưng bạn cũng có thể hỏi, vậy tại sao Đức Ma-ri-a đã chết?  Khi cuộc lữ hành của Mẹ trên trần gian kết thúc, tại sao ngài không được lãnh nhận phần thưởng mà không phải qua cái chết?  Để hiểu rõ câu trả lời, hãy ngược lại lịch sử và xét về một hình phạt khác con người phải chịu do tội nguyên tổ – đó là sự đau khổ.  Đau khổ và cơ cực trong cuộc sống là hậu quả của sự sa ngã (St 3:16-18).  Thuở ban đầu con người đã được tạo dựng để không phải chịu những cơ cực và đau khổ phần xác;  nhưng bởi tội lỗi nên cơ cực và đau khổ đã được đưa vào thế gian.

Đau khổ và sự chết là hậu quả của tội, nên Đức Giê-su Ki-tô đã đến thế gian để chuộc chúng ta khỏi tội ấy.  Ngài đã cứu chuộc bằng cách chịu đau khổ và chịu chết.  Sinh bởi Mẹ Ma-ri-a, Đức Giê-su là một phần tử của gia đình nhân loại, nhưng Ngài không thuộc dòng giống của A-đam vì Ngài không có một người cha thế trần.  Do đó Ngài đã không vướng mắc tội hoặc chịu hình phạt phải đau khổ và phải chết.  Những hình phạt này Ngài đã tự ý chấp nhận là để dâng lên Thiên Chúa tác động tình yêu tuyệt vời qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá – nhờ đó cứu rỗi chúng ta.

Đức Ma-ri-a Chấp Nhận Đau Khổ và Sự Chết 

Nếu như Thiên Chúa không giữ gìn Mẹ, thì Đức Ma-ri-a cũng đã mắc tội và phải chịu những hình phạt của tội.  Bởi được giữ gìn nên Đức Ma-ri-a ở trong tình trạng như nguyên tổ lúc chưa phạm tội.  Đúng ra đặc ân được thoát khỏi đau khổ và sự chết được ban tặng cho Mẹ, nhưng bởi Mẹ đã tự ý liên kết với Đấng Cứu Thế chịu đau khổ trong chương trình cứu chuộc là chương trình đòi hỏi Ngài phải chết.  Đức Ma-ri-a đã tự ý liên kết với Đức Ki-tô và do đó tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết, không phải như hình phạt do tội lỗi, nhưng như là những khuyết điểm của bản tính con người.  Mẹ đã khước từ đặc ân của một người không vướng mắc bợn nhơ do tội nguyên tổ và đã chấp nhận đau khổ và sự chết là để kết hợp với Đấng Cứu Thế.

Đó là lý do tại sao Đức Ma-ri-a đã chết và cũng là lý do tại sao thân xác Mẹ không còn ở lại trong mồ.  Là E-và mới, Đức Ma-ri-a đã kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô, A-đam mới, trong sự toàn thắng tội lỗi và hậu quả của nó – đặc biệt là sự chết.  Bởi đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã chung phần với chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi;  và qua việc Xác lên trời, Mẹ đã chung phần với chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự chết.

Chúng ta đừng quên câu Kinh Thánh trong sách Sáng Thế đặt căn bản cho niềm tin của người Công Giáo về vai trò của Đức Ma-ri-a trong chương trình cứu rỗi nhân loại và về những đặc ân của Mẹ:  “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy” (3:15).  Chỗ khác trong tập sách nhỏ này đã cho chúng ta thấy vị trí sự chống đối là Đấng Cứu Thế cùng với Mẹ Ngài đứng một bên, còn Xa-tan cùng những kẻ theo chúng đứng một bên.  Rõ ràng chiến thắng của Đấng Cứu Thế và Mẹ Ngài trên Satan sẽ hoàn tất.

Vậy chiến thắng của Đức Ki-tô bao gồm những gì?  Thánh Gio-an nói: “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ” (1 Ga 3:8).  Và điều Ngài đến để thực hiện thì Ngài đã làm.  Đó chính là chiến thắng của Ngài.


Nhưng Đức Ki-tô đã đến để tiêu diệt công việc gì của ma quỷ?  Trước hết là tiêu diệt tội lỗi, nhưng cả những hậu quả của nó nữa, vì trong đó có sự chết.

Chiến Thắng Của A-đam Mới

Tân Ước đã nói như thế nào về chiến thắng của Đức Ki-tô?  Khi gặp Đức Ki-tô lần đầu tiên, Thánh Gio-an Tiền Hô đã tuyên xưng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1:29).  Và sự chết cũng sẽ bị tiêu diệt:  “Người (Thiên Chúa Cha) đặt mọi thù địch dưới chân Ngài (Đức Giê-su Ki-tô)…  và thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr 15:25-26). “Tử thần đã bị chôn vùi.  Đây giờ chiến thắng.  Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?  Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?  Tử thần có nọc độc là vì tội lỗi... Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (54-57).

Mọi người được kêu gọi hãy tham dự vào chiến thắng của A-đam mới, và tất cả sẽ tham dự nhưng theo cách khác nhau.  Đó là lý do tại sao thánh Phao-lô lại viết cho tín hữu Rô-ma:  “Thiên Chúa là nguồn bình an, chẳng bao lâu nữa sẽ đè bẹp Xa-tan, bắt nó phải ở dưới chân anh em” (16:20).  Nhưng đâu là vai trò của Đức Ma-ri-a trong chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi và sự chết?  Mẹ đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng của Đức Ki-tô là điều không thể nghi ngờ, bởi vì Mẹ hiện diện trong lời hứa ban Đấng Cứu Thế như đấng đặc biệt liên kết với Đấng Cứu Thế đểø chống lại ma quỷ, thì cũng sẽ hiện diện như là Mẹ của Đấng chiến thắng ma quỷ.

Do đó cả tội lỗi lẫn sự chết sẽ không chiến thắng được Mẹ, vì chúng đã không thắng được Đức Ki-tô, con của ngài.  Điều này đúng với tất cả mọi tội lỗi, ngay cả với tội nguyên tổ là tội dù chúng ta không phạm nhưng đã lãnh chịu khi được sinh ra.  Mẹ đã được giữ gìn nhờ chiến thắng của đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Cũng thế, chiến thắng của Mẹ trên sự chết được hoàn tất do việc Linh hồn và Xác lên trời.  Thực sự Mẹ đã chết, cũng như Con của Mẹ đã chết.  Nhưng không phải là cái chết mà Thánh Phao-lô gọi là “tiền công của tội lỗi” và là công việc của thần dữ – tức là một cái chết kéo dài qua sự mục nát trong mồ cho tới khi mọi người sống lại trong ngày sau hết.  Cái chết này là hình phạt bởi tội lỗi – một hình phạt đã không ảnh hưởng gì trên Mẹ.

Đúng thế, có một lý do tại sao thân xác của Đức Ma-ri-a lại không nằm lại trong mồ, và nếu chú ý suy xét về các lời giảng dạy, chúng ta sẽ thấy lý do này đã được nói đến trong Kinh Thánh.  Đó là một chân lý đã được Thiên Chúa mạc khải về chiến thắng của Đức Ki-tô trên Xa-tan cũng bao gồm cả chiến thắng trên tội lỗi và sự chết nữa.  Điều này được dạy dỗ rõ ràng trong Tân Ước.  Căn cứ vào lời hứa ban Đấng Cứu Thế trong sách Sáng Thế và qua lời loan báo Ngài sẽ đến cùng với việc ưng thuận của Đức Ma-ri-a trong chương đầu của sách Tin Mừng Lu-ca, chúng tôi cũng đã trình bày là Đức Ma-ri-a đặc biệt liên kết với Đấng Cứu Thế trong chiến thắng trên Xa-tan. Vậy chiến thắng của Ngài trên cái chết là gì nếu đó không phải là một phần của chiến thắng trên Xa-tan và trên tội lỗi?  Thêm nữa, cùng với chiến thắng của Đức Ki-tô, chiến thắng của Đức Ma-ri-a trên sự chết chắc chắn được Thiên Chúa mặc khải qua việc Linh hồn và Xác lên trời. 

Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời

Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã viết ngắn gọn khi ngài long trọng công bố tín điều Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời:  “ Chúng ta phải đặc biệt nhớ rằng, từ thế kỷ thứ hai, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được các Thánh Giáo phụ tuyên xưng là E-và mới.  Mặc dầu phục tùng A-đam mới, Mẹ đã liên kết mật thiết với Ngài trong cuộc chiến chống lại kẻ thù hỏa ngục như đã được tiên báo trong tin mừng tiên khởi (St 3:15), và kết quả sau cùng là sự toàn thắng tội lỗi cùng cái chết đã được luôn nhắc đến trong các thư của vị Tông đồ Dân Ngoại (xem Rm 5 và 6).  Bởi đó, cũng như sự sống lại vinh hiển của Đức Ki-tô là một phần cốt yếu và là dấu chỉ cuối cùng nói lên chiến thắng này, thì việc Đức Trinh Nữ cùng với Con của ngài chống lại kẻ thù cũng phải được kết thúc qua việc thân xác trinh trong của ngài được vinh hiển.”

Như thế, người Công giáo có lý do chính đáng khi coi việc Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời là một sự kiện không thể chối cãi và không đối nghịch với quyền năng của chính Thiên Chúa.


Nên chú ý là chúng ta đang nói về việc Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời như một sự kiện – sự kiện đã được Thiên Chúa mạc khải và do đó là tín điều được khẳng định bởi quyền năng Thiên Chúa.  Đây không phải là một dữ kiện chỉ có tính cách lịch sử có thể thay đổi theo chứng cớ lịch sử.

Đừng quên là chính Thiên Chúa chứ không phải bởi tác động nào của nhân loại đã cho Đức Ma-ri-a được đem lên trời.  Cũng có thể việc Mẹ lên trời đã được thực hiện mà không có một ai chứng kiến.  Do đó sự kiện này không chỉ dựa vào uy tín của những người chứng hay những tài liệu ghi chép, nhưng dựa trên quyền bính của Giáo Hội Đức Ki-tô đã được Ngài ủy thác để giảng dạy cho muôn dân về chân lý mạc khải được bảo đảm do sự hướng dẫn của Ngài.  Chính Giáo Hội của Đức Ki-tô đã bảo đảm với chúng ta rằng Đức Ma-ri-a lên trời là sự kiện đã được Thiên Chúa mạc khải.

Không ai biết rõ việc Mẹ lên trời xảy ra ở đâu và khi nào.  Hoàn cảnh tương đối không quan trọng.  Nhưng quan trọng là chính sự kiện đã được Thiên Chúa Toàn Năng chấp nhận và mạc khải rõ ràng là từ các Tông Đồ truyền lại, bởi vì chỉ qua các ngài chúng ta mới có thể lãnh nhận một chân lý được mạc khải.

Tuy nhiên, điều này nhất thiết không có nghĩa là tất cả hoặc một Tông đồ nào đó đã được chứng kiến sự kiện xảy ra.  Nếu không có một vị nào được chứng kiến, thì các ngài sẽ  không thể biết chắc được nếu Thiên Chúa không cho biết chắc chắn.  Mặc dù ngôi mộ của Đức Ma-ri-a được tìm thấy trống rỗng chẳng bao lâu sau khi ngài mất, thì vẫn có thể thân xác Mẹ đã được rời đi đến một nơi không ai biết.  Vậy nếu chẳng một vị Tông đồ nào được chứng kiến, thì chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa mới có thể làm cho các ngài được biết chắc chắn mà chấp nhận và giảng dạy về việc Đức Mẹ Linh hồn và Xác lên trời.

Vào ngày 1 tháng 11 năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII long trọng tuyên xưng cho thế giới  “Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được lên trời vinh hiển cả xác hồn”, ngài đã chẳng giảng dạy điều gì mới, hoặc nói về một sự thật chưa từng nghe, nhưng ngài chỉ đề cao một sự thật rất quen thuộc và đoan chắc rõ ràng với toàn thể Giáo Hội rằng những gì chúng ta đã tin về việc Linh hồn và Xác Đức Ma-ri-a lên trời đã thực sự được Thiên Chúa mạc khải.

Tại sao vào năm 1950 Đức Giáo Hoàng lại sử dụng phương thức định tín để nhắc cho thế giới chú ý đến việc linh hồn và xác lên trời của Đức Ma-ri-a?  Chính ngài đã cho biết lý do:  “Việc long trọng tuyên xưng Đức Mẹ Linh hồn và Xác lên trời sẽ đem lại lợi ích không nhỏ cho xã hội con người vì nó biểu dương vinh quang Thiên Chúa.  Hy vọng lòng kính mến Đức Ma-ri-a sẽ được khơi dậy hơn và tất cả những ai được vinh dự mang danh Ki-tô hữu sẽ được thêm lòng ao ước chia sẻ trong tình hiệp nhất với Nhiệm Thể Đức Ki-tô và được thêm lòng yêu mến Mẹ là Đấng luôn tỏ lòng hiền mẫu đối với các chi thể của Nhiệm Thể đó trong mọi việc.  Và chúng tôi hy vọng rằng những ai suy niệm về gương vinh hiển Đức Ma-ri-a ban cho chúng ta sẽ càng ngày càng xác tín hơn về giá trị của một cuộc đời đã được tận hiến để thi hành thánh ý Cha trên trời và đem lại lợi ích cho tha nhân.  Sau hết, chúng tôi hy vọng rằng niềm tin vào sự lên trời cả hồn xác của Đức Ma-ri-a sẽ làm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta được mạnh mẽ và hữu hiệu hơn.”

Đức Ma-ri-a

           “Từ muôn đời, Đức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, Ngài trở nên Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh trên trần gian, và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm tốn của Chúa.  Vì đã cưu mang sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Ki-tô, đã dâng Chúa Ki-tô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Đức Ma-ri-a đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.  Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta.”

Công Đồng Va-ti-ca-nô II
Hiến chế Tín lý về Giáo Hội (số 61)

Nguyễn Việt Hữu, chuyển ngữ